Tìm tài liệu

Nong thon Viet Nam trong cac tieu thuyet tu nam 1986 den nam 2000

Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000

Upload bởi: biench822

Mã tài liệu: 298155

Số trang: 117

Định dạng: pdf

Dung lượng file: 1,060 Kb

Chuyên mục: Văn học

Info

MS: LVVH-LLVH012

SỐ TRANG: 117

NGÀNH: VĂN HỌC

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC

TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM

NĂM: 2008

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

Thời kì đổi mới được đánh dấu bắt đầu từ năm 1986 và kéo dài đến tận ngày

nay. Song song cùng sự biến đổi của xã hội, văn học cũng có nhiều thay đổi. Thời

kì này, văn xuôi phát triển mạnh, có nhiều sự đổi mới. Trong cuốn Tiểu thuyết

Việt Nam hiện đại, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã nhận xét về tình hình sáng tác

văn xuôi của thời kì này: “mở rộng đề tài và các phương thức tiếp cận, chấp nhận

cả lãng mạn, tượng trưng, huyền thoại, viễn tưởng, quan niệm cởi mở hơn về vai

trò của chủ thể nhà văn, về điển hình hoá, về các kiểu ngôn ngữ trần thuật, nhìn

chung là khuyến khích sự đa dạng về hình thức và phong cách biểu hiện” và

“chúng ta được mùa về truyện ngắn và tiểu thuyết”. Đặc biệt là tiểu thuyết. Cũng

theo sự thống kê của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ thì từ năm 1980 đến năm 1996,

độc giả đã được đón nhận đến 360 cuốn tiểu thuyết, trong đó nổi bật là tên tuổi

những nhà tiểu thuyết như: Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Khuất Quang Thụy, Chu Lai,

Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Khắc Trường,

Triệu Bôn, Ngô Ngọc Bội, Vũ Huy Anh, Bảo Ninh, Hoàng Ngọc Hà, Nhật Tuấn,

Ông Văn Tùng, Xuân Đức, Nguyễn Trí Huân, Phan Tứ... Sau này, còn xuất hiện

thêm nhiều tác giả, tác phẩm khác.

Với số lượng tác phẩm, tác giả như thế, có thể nói, để tìm hiểu, nghiên cứu

tất cả các đề tài, nội dung của tiểu thuyết thời kì này là một điều khó, thậm chí

không thể. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu một khía

cạnh nội dung của tiểu thuyết thời kì này, đề tài mang tên: “Nông thôn Việt Nam

trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000”. Lí do để chúng tôi chọn đề

tài này là:

Thứ nhất, đề tài này có liên quan đến những tiểu thuyết đoạt giải của Hội

Nhà Văn, đã được công bố rộng rãi và được công chúng đón nhận.

Thứ hai, các tiểu thuyết đều nằm trong giai đoạn 1986-2000, là giai đoạn có

ý nghĩa quan trọng, mở đầu thời kì đổi mới và kết thúc một thế kỉ.

Thứ ba, khi tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết thời kì đổi mới, người ta chủ

yếu xoáy sâu vào các nội dung như: vấn đề chiến tranh, vấn đề xây dựng chủ

nghĩa xã hội, vấn đề số phận con người trong thời kì mới, sự thay đổi trong những

quan niệm về giá trị con người... Ít người chú ý tới khía cạnh nội dung phản ánh

hiện thực nông thôn trong các tác phẩm.

Chính vì những lí do kể trên mà chúng tôi quyết định chọn đề tài này.

Chúng tôi mong muốn việc nghiên cứu đề tài sẽ phần nào đó đóng góp một

cách nhìn khách quan và tương đối toàn diện cho bức tranh xã hội Việt Nam trong

thời kì vốn được xem là cực kì nhạy cảm này.

2. Lịch sử vấn đề

Đề tài chủ yếu tập trung khảo sát ba tiểu thuyết Thời xa vắng (Lê Lựu),

Bến không chồng (Dương Hướng) và Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn

Khắc Trường), những tiểu thuyết đã đoạt giải chính thức của Hội nhà văn nên thu

hút được sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu và độc giả. Trong quá trình

tìm hiểu và thu thập tài liệu, chúng tôi sưu tập được một số bài viết nghiên cứu về

các tiểu thuyết này. Cụ thể như:

Hoàng Ngọc Hiến trong bài “Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu” đăng trên tạp

Tạp chí văn nghệ quân đội, số 4, năm 1987 đã tập trung nghiên cứu tiểu thuyết

Thời xa vắng trong giới hạn vấn đề số phận cá nhân, số phận của người nhà quê

trước những biến động của xã hội, cụ thể là cuộc đời, số phận của nhân vật Giang

Minh Sài. Theo Hoàng Ngọc Hiến thì anh nông dân Giang Minh Sài “ “người nhà

quê” của Lê Lựu hai lần khốn khổ, vừa xung đột với hệ tư tưởng gia trưởng, vừa

xung đột với thành phố ở bộ phận phức tạp nhất của nó là đàn bà, con gái.”[16,

tr119], thế nên cuộc sống của anh cứ bùng nhùng, bế tắc, vướng vào hết bi kịch

này đến bi kịch khác. Và từ những vấn đề thuộc về nhân vật, thuộc về tác phẩm,

tác giả Hoàng Ngọc Hiến suy luận đến những vấn đề lớn, những vấn đề bức xúc

của xã hội suốt một thời: “Lê Lựu chỉ đụng đến đề tài “người nhà quê và đô thị”

một cách ngẫu nhiên: chỉ là câu chuyện thương tâm một “anh nhà quê” chơi trèo

với thành phố bị bại. Trên đất nước ta sau khi thống nhất, không phải cán bộ tiếp

quản nào cũng trở thành người chủ của thành phố, không ít “người nhà quê” tiếp

xúc với đô thị đã bị bại hoàn toàn, sống dở chết dở, điêu đứng bi thảm, sự thất bại

của họ mang ý nghĩa xã hội sâu sắc”[16, tr119].

Thiếu Mai cũng trong Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4, năm 1987 có bài:

“Nghĩ về một “thời xa vắng” chưa xa”. Bài viết của Thiếu Mai nghiên cứu khá sâu

sắc cả khía cạnh nội dung lẫn nghệ thuật của Thời xa vắng. Ở khía cạnh nội dung,

tác giả phân tích sự tác động của hoàn cảnh đến quá trình hình thành tính cách của

nhân vật. Trong tác phẩm, nhân vật Giang Minh Sài cả cuộc đời đã phải gánh trên

vai hệ tư tưởng gia trưởng, những quan niệm, những định kiến... khiến cho anh

không lúc nào được sống bằng chính cuộc đời của mình, chỉ biết nghe và chiều ý

mọi người, đến nỗi theo lời của tác giả Thiếu Mai thì: “trong con người anh, luôn

luôn tồn tại hai thế lực: chống đối và khuất phục. Hai thế lực ấy ngày càng phát

triển, càng mâu thuẫn, và đẩy bi kịch trong con người Sài lên một mức độ ngày

càng cao hơn.” [32, tr121]. Và cũng theo sự đánh giá của Thiếu Mai thì “ Lê Lựu

đã tỏ ra hiểu nhân vật của mình đến tận chân tơ kẽ tóc, đến tận những ngọn

ngành sâu thẳm nhất của tình cảm, suy nghĩ. Xót xa cho cuộc đời Sài bao nhiêu,

tác giả lại giận dữ lên án cách sống, cách ứng xử thiếu bản lĩnh của anh ta bấy

nhiêu” [32, tr122]. Mà đâu chỉ có Sài, bên cạnh anh còn biết bao nhiêu người cũng

làm những điều mình không muốn chỉ vì không dám làm phật ý hay làm khác với

mọi người xung quanh như ông đồ Khang, anh Tính, chú Hà, Chính uỷ Đỗ Mạnh,

anh Hiền, anh Hiển... Nói cách khác, Sài và những nhân vật liên quan đến tấn bi

kịch của cuộc đời anh vừa là đại diện cho những cá nhân riêng lẻ nhưng cũng là

sản phẩm chung của “một thời, thời xa vắng, nhưng chưa xa là bao”, cái thời mà

do hoàn cảnh lịch sử của nó, ý thức cá nhân phải tạm lu mờ, nhường chỗ cho

những vấn đề lớn lao mang ý nghĩa dân tộc. Đấy là xét về mặt nội dung. Xét về

mặt nghệ thuật, mặc dù “nhiều người có ý cho là văn Lê Lựu không chuốt, mộc

quá, và không phải là không có những câu què, hoặc trúc trắc, thậm chí có câu

ngữ pháp chưa chỉnh” , nhưng tác giả Thiếu Mai vẫn cho rằng tiểu thuyết Thời

xa vắng được xây dựng bằng “một giọng văn trầm tĩnh vừa giữ được vẻ đầm ấm

chân tình, vừa khách quan, không thêm bớt, tô vẽ, đặc biệt là không cay cú, chính

giọng văn như vậy đã góp phần đáng kể vào sức thuyết phục, hấp dẫn của tác

phẩm” [32, tr.123]. Tuy chưa thích thú với kết cấu ba phần mà phần kết “khó chấp

nhận vì tính chất bất hợp lí của nó, và vì nó thể hiện một sự áp đặt do ý muốn chủ

quan của tác giả” [32,tr.125]. Thế nhưng, với tác giả Hiếu Mai, Thời xa vắng

“tuy vẫn còn có những nhược điểm, còn thiếu một sự chặt chẽ, nhất quán cần

thiết, nhưng với ưu điểm rất trội của nó, nó là một thành công, một đóng góp vào

nền văn học đang có đà phát triển khởi sắc cùng chúng ta mấy năm vừa qua.”

[32, tr.125]

Đinh Quang Tốn trong cuốn Tản mạn và chính kiến văn chương có bài: “Lê

Lựu - Thời xa vắng”. Trong bài viết này, Đinh Quang Tốn muốn nói đến sự hoá

thân của cuộc đời tác giả Lê Lựu vào trong các tác phẩm của mình. Trong khi giới

thiệu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu, những dấu ấn cá nhân của tác

giả để lại trong các sáng tác..., Đinh Quang Tốn có vài dòng nhận xét về tiểu

thuyết Thời xa vắng: “Thời xa vắng viết về hậu phương miền Bắc trong cuộc

chống Mĩ cứu nước với cả cái vui và cái buồn, cái nồng nhiệt và sự non nớt,

những quầng sáng và những bóng mờ, có cả nụ cười và nước mắt...” [49, tr.18].

Nhìn chung, đề tài hậu phương nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mĩ có

nhiều người viết, nhưng theo sự đánh giá của Đinh Quang Tốn thì: “Lê Lựu là

người viết thành công nhất” [49, tr.22] và “ Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên

Hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu, thì Lê Lựu là

một trong tổng số 60 nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi Việt Nam hiện đại, chọn lấy 30

tác phẩm, thì có mặt Thời xa vắng. Nói thế để thấy, trong văn học Việt Nam hiện

đại, Lê Lựu đã có một vị trí đáng kể.” [49, tr.22]

Trung Trung Đỉnh trong bài “Dương Hướng và Bến không chồng” đăng

trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 12 năm 1991 đã đưa ra một số nhận xét về

mặt đề tài, nội dung và kết cấu của tiểu thuyết Bến không chồng của Dương

Hướng. Về mặt đề tài, tác giả Trung Trung Đỉnh nhận xét: “ Có người nói, tiểu

thuyết Bến không chồng viết về đề tài nông thôn. Lại có người nói, tiểu thuyết

này viết về đề tài chiến tranh. Có người lại cho rằng đây là cuốn sách viết về đề

tài xã hội. Tất cả đều có đấy, nhưng theo tôi Dương Hướng không nhằm vào đề

tài. Anh khai thác đến tận cùng thân phận những nhân vật chính....” [8, tr.99]. Để

lí giải cho ý kiến của mình, tác giả bài viết đã đưa ra dẫn chứng về cuộc đời, thân

phận các nhân vật như: nhân vật Nguyễn Vạn suốt cả đời gìn giữ cái bóng của

vinh quang mà đánh mất đi cái chính yếu là bản thân mình, cá nhân mình; các

nhân vật nữ như bà Nhân, bà Khiêm, mụ Hơn, cô Hạnh, cô Thủy, cô Dâu..., mỗi

người một hoàn cảnh, một thân phận khác nhau và đều để lại ấn tượng sâu sắc

trong lòng người đọc; Về mặt nội dung, tác giả Trung Trung Đỉnh cảm nhận được

sự chân thật, giản dị trong ngòi bút hiện thực của Dương Hướng qua việc miêu tả

ngôi làng Đông, những con người của làng Đông, những cảnh sinh hoạt thường

nhật, những nếp nghĩ, tình cảm, cách cư xử... tự nhiên, gần gũi như nó đang diễn

ra trước mắt người đọc, khiến người đọc như đang được sống trong không khí của

làng, được hòa nhập vào cuộc sống của người dân; Còn về kết cấu của tiểu thuyết,

Trung Trung Đỉnh chỉ ra: “Cuốn sách được kết cấu một cách hồn nhiên, thuận

theo chiều thời gian, theo sự kiện chung của đất nước trong khoảng thời gian đó,

và theo sự đến với thân phận từng nhân vật. Chính vì thế anh không mất nhiều

thời gian trong việc tính toán chương hồi, mặc dù vẫn có chương hồi” [8, tr.99]. Ở

đây, tác giả Trung Trung Đỉnh cũng có chỉ ra những mặt hạn chế của cuốn tiểu

thuyết này, đó là quá trình dẫn dắt “có những chỗ sắp xếp vụng và đôi khi lại thiếu

sự tế nhị của nghề nghiệp”, “ phần đầu dài quá. Câu chữ có chỗ hơi luộm thuộm

quá. Cái cười của cô Dâu cứ hi hí thế, e tự nhiên chủ nghĩa quá” [8, tr.100]... Thế

nhưng, tác giả bài viết lại đánh giá “đây là nhược điểm của người say”, đấy là

biểu hiện cái say của người nghệ sĩ Dương Hướng giữa làng Đông. Nhưng cuối

cùng, ưu điểm vẫn là chủ yếu, tác giả Trung Trung Đỉnh thừa nhận: “Anh chiếm

lĩnh được tâm hồn người đọc bằng sức hút của tấm lòng yêu thương nhân hậu, tự

nhiên, không ồn ào văn vẻ với một bút lực dồi dào đầy trách nhiệm.

Dương Hướng là người có bản lĩnh, dám chịu trách nhiệm trước những số phận bi

ai, không né tránh nửa vời khiến cho thiên truyện càng tới những trang cuối càng

dồn nén, dồn nén đến nghẹt thở” [8, tr.98]

Về tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Hữu Sơn, trong

cuốn Điểm tựa phê bình văn học có bài: “Bóng đêm - Một phương diện tư duy

nghệ thuật trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma” chủ yếu khảo sát

thủ pháp nghệ thuật, cụ thể là thời gian nghệ thuật của tiểu thuyết này. Theo tác

giả Nguyễn Hữu Sơn thì tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma “không có

những trang miêu tả, thể hiện thời gian tâm lí, tâm trạng gây ấn tượng như Sầu

đong càng lắc càng đầy – Ba thu dồn lại một ngày dài ghê! (Truyện Kiều), song

chính mối liên hệ giữa các biến cố, sự kiện với thời điểm nảy sinh các biến cố, sự

kiện đó mới là đặc điểm chính yếu tạo nên đặc trưng thời gian cho tác phẩm” [43,

tr.131-132]. Và đặc trưng thời gian của tác phẩm là thời gian bóng đêm. Các phân

đoạn mở đầu hay kết thúc trong tác phẩm cũng gắn liền với cảnh chiều tà, bóng

tối. Phần lớn những thời gian được đặc tả trong tác phẩm là thời gian bóng đêm,

hơn thế nữa “chúng lại thuộc về đêm cuối tháng không trăng sao, hoặc có trăng

thì chỉ thấy hình hài kì dị, không bao giờ được miêu tả như cái đẹp vĩnh hằng của

thiên nhiên” [43, tr.133]; Đêm cũng là thời điểm bộc lộ thân phận, tính cách của

con người: ngay đầu tác phẩm là những hồi ức về chuyện mấy mươi năm trước lão

Quềnh đã từng gặp ma và ăn ở với ma trong đêm, rồi đến cảnh đám ma cụ cố Đại

trong đêm, cảnh Thó lợi dụng đêm tối bê trộm hũ rượu, cảnh bí thư Thủ và phó

công an Cao đã bày trận địa giả đẩy bà Son phải ra mặt chống ông Phúc - người

tình của bà năm xưa nay là là kẻ thù của dòng họ nhà chồng cũng được tiến hành

trong đêm, bà Son bị dồn đẩy cũng lao mình xuống sông tự vẫn giữa đêm tối...;

Thời gian bóng tối là thời gian của ma quỉ, hắc ám, hiểm họa, là sự đồng lõa với

tâm địa đen tối của từng con người, những phe nhóm , những “chi bộ gia đình”,

những sự ăn chia ngấm ngầm của các đối thủ, hay nói cách khác nó là thời gian

cho phần ma trong con người được bộc lộ....Chính vì thế, tác giả Nguyễn Hữu Sơn

đã kết luận: “Thời gian đêm tối là sự thống lĩnh trong Mảnh đất lắm người nhiều

ma, đồng thời nó lấn át ánh sáng của trăng sao, càng vượt qua, thậm chí triệt tiêu

sự mô tả ánh bình minh, mặt trời, nắng ấm rực rỡ, hoa nở, chim bay...”. Và trong

khi khảo sát cái không khí hắc ám, ngột ngạt của bóng tối trong tác phẩm, tác giả

Nguyễn Hữu Sơn đã tìm ra một tầng giá trị khác của tiểu thuyết này: “phải chăng

ý nghĩa thanh lọc, khát khao hoàn thiện tính người, dứt bỏ bóng đêm ma quỉ mới

chính là thông điệp tác giả muốn gửi tới bạn đọc”[43, tr.135].

Lê Thị Tâm Hoài trong luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu đề tài: “Người phụ

nữ trong ba tiểu thuyết đoạt giải năm 1991”. Bến không chồng của Dương Hướng

và Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường là hai trong số ba

tiểu thuyết đó. Ở bài viết này, tác giả Lê Thị Tâm Hoài đi sâu khai thác hình ảnh,

vẻ đẹp và bi kịch của những người phụ nữ thể hiện trong ba tiểu thuyết. Đọc bài

viết này ta sẽ thấy bà Nhân, cô Hạnh...(Bến không chồng), bà Son, cô

Đào...(Mảnh đất lắm người nhiều ma) đã được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác

nhau. Họ đều là những người phụ nữ đẹp, đẹp ở hình thể, đẹp ở tâm hồn, đẹp

trong bản năng... Nhưng cuộc đời họ cũng đầy bất hạnh, đầy bi kịch chỉ vì họ sinh

ra là phụ nữ, họ phải chịu đựng biết bao áp lực, định kiến ở đời....

Trên đây chỉ là một số trong rất nhiều bài viết chúng tôi muốn lấy làm ví dụ

minh họa cho sự quan tâm, những vấn đề nghiên cứu khác nhau của các tác giả về

ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma.

Có thể nói, khi nghiên cứu ba tiểu thuyết này, các nhà nghiên cứu hầu như không

phân tích sâu bức tranh xã hội nông thôn thể hiện trong các tác phẩm, mà chỉ

chạm tới, chỉ nói qua. Dẫu không phải là tiền sử của vấn đề luận văn nghiên cứu,

nhưng các bài viết vẫn có giá trị tham khảo rất lớn. Tuy nhiên, chúng tôi muốn

nhấn mạnh rằng vấn đề nông thôn không mới, không đặc biệt trong nghiên cứu

văn học, cũng không mới trong phạm vi nghiên cứu các tiểu thuyết Thời xa vắng,

Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma. Nhưng việc đi sâu nghiên

cứu bức tranh nông thôn miền Bắc Việt Nam một cách có hệ thống dựa trên ba

tiểu thuyết kể trên lại là một việc tương đối mới mẻ, tương đối khái quát.

3. Đối tượng nghiên cứu

Viết về nội dung nông thôn Việt Nam giai đoạn 1986-2000, có thể kể tên

nhiều tác phẩm như: Thuỷ hoả đạo tặc (Hoàng Minh Tường), Người giữ đình làng

(Dương Duy Ngữ), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu)...

Nhưng, trong phạm vi đề tài nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung khảo sát bức

tranh nông thôn miền Bắc Việt Nam qua ba tác phẩm: Thời xa vắng (Lê Lựu),

Bến không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn

Khắc Trường).

4. Phạm vi nghiên cứu.

Nhìn chung, các tiểu thuyết thời kì đổi mới phản ánh nhiều vấn đề xã hội

như: vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề chiến tranh, vấn đề con người và

quan niệm về giá trị con người trong thời kì mới... Ở đề tài này, chúng tôi chủ yếu

tập trung nghiên cứu các vấn đề của nông thôn miền Bắc qua một số tiểu thuyết

như đã xác định ở trên.

5. Mục tiêu của việc nghiên cứu - Những đóng góp.

Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng tới những mục tiêu sau:

Thứ nhất, trong khi nghiên cứu các vấn đề thuộc về nông thôn được trình

bày trong ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người

nhiều ma, chúng tôi sẽ cố gắng phác hoạ những tồn tại và nảy sinh trong bức

tranh văn hoá làng quê Việt Nam thời kì đổi mới.

Thứ hai, chúng tôi quan tâm đến vấn đề con người cũng như quan tâm đến

việc phát hiện những chuyển biến trong lối sống, tâm lí, tình cảm của người nông

dân trước sự thay đổi của xã hội.

Thứ ba, bên cạnh những tìm tòi về nội dung thể hiện của tác phẩm, chúng

tôi cũng thực sự chú ý đến phong cách chiếm lĩnh và phản ánh hiện thực của các

tác giả.

Đạt được những mục tiêu kể trên, đề tài cũng có những đóng góp nhất định,

đó là đưa ra một cái nhìn tương đối khách quan, toàn cảnh về nông thôn miền Bắc

Việt Nam trong thời kì mới. Thêm nữa, những điểm hạn chế của đề tài, thiết nghĩ,

cũng có thể tạo hứng thú cho những ai cùng có mối quan tâm đến vấn đề này.

6. Phương pháp nghiên cứu.

Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng nghiên cứu và mục đích cần hướng tới

của luận văn, chúng tôi đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp phân tích - loại hình: Nắm vững đặc trưng, phương pháp

luận loại hình thể loại tiểu thuyết để khái quát bức tranh nông thôn, tìm ra và phân

tích những vấn đề chung, những biến đổi của xã hội, của con người và những bi

kịch mà con người phải chịu đựng sau luỹ tre làng.

Phương pháp lịch sử: Trên quan điểm lịch sử cụ thể, luận văn xem xét sự

vận động và chuyển biến của xã hội theo xu thế tất yếu của nó, để từ đó cố gắng

tiếp cận một cách đầy đủ nhất những quan điểm của tác giả về đời sống, xã hội và

con người thể hiện trong các tiểu thuyết.

Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng không nhiều,

nhưng chúng tôi có sử dụng để so sánh ba tiểu thuyết kể trên với một số tiểu

thuyết khác cùng thời có phản ánh những vấn đề liên quan đến vấn đề luận văn

đang nghiên cứu.

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có ý thức vận dụng những hiểu biết

về thi pháp học hiện đại kết hợp với cảm thụ truyền thống để nghiên cứu, chiếm

lĩnh tác phẩm theo quan niệm của mình. Đồng thời, cũng có ý thức tham khảo

những ý kiến đánh giá, nhận xét đã có về từng tác phẩm. Nhưng, cái chính yếu là

chúng tôi luôn cố gắng cảm nhận tác phẩm dựa trên ý nghĩa bản thân nó. Chúng

tôi hi vọng những gì thể hiện trong luận văn này sẽ hạn chế được phần phiến diện

chủ quan.

7. Kết cấu luận văn.

Luận văn gồm 113 trang. Ngoài hai phần dẫn luận và kết luận, luận văn có ba chương:

Chương I: Bức tranh văn hoá làng quê trong ba tiểu thuyết: Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma.

Chương II: Bi kịch của con người nông thôn.

Chương III: Nghệ thuật miêu tả hiện thực

Phần bên dưới chỉ hiển thị một số trang ngẫu nhiên trong tài liệu. Bạn tải về để xem được bản đầy đủ

  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000
  • Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000

GỢI Ý

Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem

Cảm hứng triết luận về con người trong ...

Upload: inghetinhithanvinh

📎 Số trang: 113
👁 Lượt xem: 373
Lượt tải: 16

Nhìn chung về tiểu thuyết Việt Nam từ 1995 ...

Upload: minhcmc

📎 Số trang: 131
👁 Lượt xem: 562
Lượt tải: 16

Khảo sát các sắc thái giọng điệu trong tiểu ...

Upload: tuan_7924

📎 Số trang: 7
👁 Lượt xem: 668
Lượt tải: 17

Đề tài phong tục Việt Nam trong tiểu thuyết ...

Upload: pok_p9t

📎 Số trang: 100
👁 Lượt xem: 449
Lượt tải: 16

Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Việt Nam ...

Upload: havu2000

📎 Số trang: 104
👁 Lượt xem: 722
Lượt tải: 17

Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn ...

Upload: cccp64

📎 Số trang: 166
👁 Lượt xem: 517
Lượt tải: 20

Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết nam cao

Upload: hongtlt

📎 Số trang: 118
👁 Lượt xem: 637
Lượt tải: 16

nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết nam cao 1

Upload: hatbyt

📎 Số trang: 118
👁 Lượt xem: 506
Lượt tải: 17

Cái nhìn nghệ thuật về người phụ nữ trong ...

Upload: chihai83

📎 Số trang: 152
👁 Lượt xem: 467
Lượt tải: 17

Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Việt Nam ...

Upload: allenrashawn76

📎 Số trang: 104
👁 Lượt xem: 489
Lượt tải: 16

trong tiểu thuyết Việt Nam có biểu hiện của ...

Upload: anhbuikim70

📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 618
Lượt tải: 16

Quan niệm nghệ thuật mới về con người trong ...

Upload: makeno26

📎 Số trang: 119
👁 Lượt xem: 608
Lượt tải: 17

QUAN TÂM

Những tài liệu bạn đã xem

Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ ...

Upload: biench822

📎 Số trang: 117
👁 Lượt xem: 656
Lượt tải: 16

CHUYÊN MỤC

Văn hóa nghệ thuật Văn học
Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000 MS: LVVH-LLVH012 SỐ TRANG: 117 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2008 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Thời kì đổi mới được đánh dấu bắt đầu từ năm 1986 và kéo dài đến tận ngày nay. Song song cùng sự biến đổi của xã pdf Đăng bởi
5 stars - 298155 reviews
Thông tin tài liệu 117 trang Đăng bởi: biench822 - 30/05/2024 Ngôn ngữ: Việt nam, English
5 stars - "Tài liệu tốt" by , Written on 30/05/2024 Tôi thấy tài liệu này rất chất lượng, đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Chia sẻ thông tin với tôi nếu bạn quan tâm đến tài liệu: Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000