Mã tài liệu: 297453
Số trang: 250
Định dạng: pdf
Dung lượng file: 2,688 Kb
Chuyên mục: Ngôn ngữ học
MS: LVNNH010
SỐ TRANG: 250
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
NĂM: 2009
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Địa danh là một bộ phận đặc biệt của từ vựng, có nguồn gốc và ý nghĩa riêng,
nằm trong đối tượng của bộ môn từ vựng học. Bên cạnh việc nhận biết, hiểu rõ
những đặc điểm ngôn ngữ trong các phương thức cấu tạo của hàng loạt tên gọi, địa
danh còn cung cấp nguồn tư liệu quý giá cho nhiều ngành khoa học khác như dân
tộc học, địa lý học, lịch sử học, khảo cổ học, văn hóa học… Vì vậy, công việc
nghiên cứu địa danh có ý nghĩa và có giá trị rất lớn.
Giống như một “đài kỷ niệm”, nghiên cứu địa danh có thể giúp phác thảo
được bức tranh toàn cảnh về sự ra đời của một tộc người, một dân tộc; về sự giao
thoa, tiếp xúc, bảo lưu những giá trị lịch sử, văn hóa của một địa bàn trong những
giai đoạn, thời kỳ khác nhau. Không những góp phần phản ánh đời sống ngôn ngữ,
nghiên cứu địa danh còn phản ánh những biểu hiện của sự biến đổi và phát triển
tiếng Việt.
Địa danh ở Đồng Nai cũng mang những đặc điểm chung đó. Trên bước đường
hình thành và phát triển, vùng Đồng Nai đã sản sinh ra những tên đất, tên làng xóm
tạo thành một hệ thống địa danh phản ánh những nét đặc trưng của vùng đất “gian
lao mà anh dũng”. Theo quy luật tất yếu của cuộc sống, nhiều tên gọi vẫn tồn tại
bền vững mặc bao thăng trầm của lịch sử nhưng cũng có những địa danh ít được
nhắc tới hoặc bị trôi vào quên lãng. Quá trình khảo sát, sưu tầm, phân tích, giải
thích địa danh tỉnh Đồng Nai giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về lịch sử, văn hóa, địa
hình, những di tích, thắng cảnh… của địa phương. Bên cạnh đó, nghiên cứu địa
danh tỉnh Đồng Nai còn nhằm bổ sung một phần tư liệu cho ngành địa danh học của
Việt Nam - vốn chưa có một công trình nghiên cứu về toàn bộ địa danh cả nước.
Sự phong phú, đa dạng của địa danh tỉnh Đồng Nai đã thu hút sự quan tâm
của khá nhiều người trong và ngoài tỉnh thể hiện qua nhiều công trình, bài viết khác
nhau. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu địa danh ở Đồng
Nai dưới góc độ ngôn ngữ. Dẫu biết rằng đây là một đề tài không đơn giản, còn
nhiều vấn đề lý luận phức tạp, nhiều ý kiến chưa thống nhất, nhưng với mong muốn
được thỏa mãn những thắc mắc bấy lâu nay về những cái tên rất gần gũi với nơi
mình sinh sống, và trên hết là góp một phần nhỏ nhoi về những tiền đề lý luận và
thực tiễn trong việc nghiên cứu địa danh nói chung, nên chúng tôi chọn đối tượng
này để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
Ở nước ta, giai đoạn phôi thai, có một số bộ sách sử, địa chí ghi chép và giải
thích nhiều địa danh, nhưng chủ yếu chỉ giải thích địa danh ở góc độ địa lý - lịch sử
hay dưới một góc độ nào đó. Những tác phẩm nổi bật là Dư địa chí (soạn năm
1435) của Nguyễn Trãi, Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ XV) của Ngô Sĩ Liên, Ô
châu cận lục (1553) của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn,
Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806) của Lê Quang Định, Lịch triều hiến
chương loại chí (soạn trong 10 năm 1809 - 1819) của Phan Huy Chú, Gia Định
thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức, Đại Nam nhất thống chí (soạn xong
năm 1882) của Quốc sử quán triều Nguyễn, Nomenclature des communes du Tonkin
(classées par cantons, phu, huyen ou chau et par provinces) (Tự vựng làng xã ở Bắc
Kỳ) (1928) do Ngô Vĩ Liên biên soạn và cuốn Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX
(thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra) do Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch và
biên soạn (1981).
Có thể xem giai đoạn hình thành của địa danh học Việt Nam bắt đầu từ những
năm 60, khi mà các vấn đề liên quan đến địa danh và lý luận về địa danh đã được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, địa lý,
văn hóa, ngôn ngữ… Tác giả Thái Văn Kiểm tiếp cận địa danh ở góc độ lịch sử -
văn hóa trong tác phẩm Đất Việt trời Nam (1960). Đào Duy Anh sử dụng phương
pháp nghiên cứu địa lý học lịch sử trong tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời
(1964) đã xác lập, phân định lãnh thổ và từng khu vực, bàn về quá trình diên cách,
thay đổi địa danh trong lịch sử… Người đầu tiên nghiên cứu địa danh dưới góc độ
ngôn ngữ học là Hoàng Thị Châu với bài Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông
Nam Á qua một vài tên sông (1964). Hai tác giả Trần Thanh Tâm trong bài Thử bàn
về địa danh Việt Nam (1976) và Nguyễn Văn Âu trong Một số vấn đề về địa danh
học ở Việt Nam (2000) đã nêu một số vấn đề cơ bản về địa danh và địa danh học
Việt Nam.
Ngoài những công trình trên, còn có thể kể đến những tác phẩm có liên quan
đến địa danh học như Đinh Văn Nhật với Phương pháp vận dụng địa danh học
trong nghiên cứu địa lý học, lịch sử cổ đại Việt Nam (1984); Sự hình thành và diễn
biến của các tên làng người Việt cho đến năm 1945 (1987) của Bùi Thiết; Nguyễn
Quang Ân với Việt Nam, những thay đổi địa danh và địa giới các đơn vị hành chính
1945-1997 (1997)…
Nổi cộm nhất trong giai đoạn hình thành là sự xuất hiện của những luận án
nghiên cứu địa danh học ở Việt Nam xuất phát từ bình diện ngôn ngữ học và sự ra
đời của nhiều từ điển địa danh.
Với luận án Phó Tiến sĩ Những đặc điểm chính của địa danh ở thành phố Hồ
Chí Minh (1990) và sau đó in thành sách Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu
địa danh (địa danh thành phố Hồ Chí Minh) (1991), tác giả Lê Trung Hoa đã trình
bày khá hệ thống những vấn đề về địa danh mang tính thiết thực bao gồm định
nghĩa địa danh, nguyên tắc, phân loại địa danh, phương thức đặt địa danh, cấu tạo
địa danh, ý nghĩa và nguồn gốc địa danh, giá trị phản ánh hiện thực.
Tác giả Nguyễn Kiên Trường đã vận dụng những lý luận cơ bản của địa danh
học hiện đại để hoàn thành luận án Phó Tiến sĩ Những đặc điểm chính của địa danh
Hải Phòng (sơ bộ so sánh với một số vùng khác) (1996). Luận án đưa ra cách phân
loại địa danh theo chức năng giao tiếp và hệ quy chiếu đồng đại - lịch đại, một nét
mới trong nghiên cứu địa danh.
Ngoài hai luận án trên, Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường còn có hàng
loạt bài viết trình bày cụ thể về địa danh của một số địa phương khác hay những
khía cạnh khác trong nghiên cứu địa danh. Chẳng hạn như Lê Trung Hoa với Tìm
hiểu ý nghĩa và nguồn gốc một số thành tố chung trong địa danh Nam Bộ (1983),
Tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc chung “Cái” trong địa danh Nam Bộ (1988), Địa
danh bằng chữ và địa danh bằng số (1999), Chung quanh thuật ngữ “địa danh”
(2000), Nghĩ về công việc của người nghiên cứu địa danh và biên soạn từ điển địa
danh (2000), Những nguyên nhân làm thay đổi và sai lệch một số địa danh Việt
Nam trong tiếng dân tộc (2002), Địa danh hành chính ở Việt Nam (2002), Địa danh
học Việt Nam (2006)… Một số bài viết của Nguyễn Kiên Trường đó là Vài suy nghĩ
về việc khảo sát hệ thống tên riêng địa lý ở Việt Nam (1993), Tìm hiểu về địa danh
học (1994), Thử tìm hiểu sự bảo lưu tên Nôm làng xã dưới góc độ ngôn ngữ và văn
hóa (1994), Vài vấn đề liên quan đến công tác thống nhất hóa cách ghi địa danh ở
Việt Nam (1995), Địa danh biên giới Tây nam và những dữ liệu cơ bản để nghiên
cứu, hoạch định, xây dựng đường biên (1996)…
Gần đây là hai luận án tiến sĩ của Từ Thu Mai Nghiên cứu địa danh Quảng Trị
(2003) và Những đặc điểm chính của địa danh Dak Lăk (2005) của Trần Văn Dũng;
cùng với hai luận văn thạc sĩ: Văn hóa qua địa danh Việt ở tỉnh Đồng Nai (2006)
của Võ Nữ Hạnh Trang, và Những đặc điểm chính của địa danh ở Vĩnh Long (sơ bộ
có so sánh với địa danh một số vùng khác) (2008) của Nguyễn Tấn Anh.
Bên cạnh đó là bốn cuốn từ điển địa danh đáng chú ý: Sổ tay địa danh Việt
Nam (1995) của Đinh Xuân Vịnh, Sổ tay địa danh Việt Nam (1998) của Nguyễn
Dược - Trung Hải, Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng (1998) do Ngô Đăng Lợi
chủ biên và Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh (2003) do Lê Trung
Hoa chủ biên.
Như vậy, tính đến thời điểm hiện nay, các công trình về địa danh học ở nước
ta đã xác lập được cơ sở lý luận, cũng như đối tượng và phương pháp nghiên cứu
địa danh.
2.2. Nghiên cứu địa danh ở Đồng Nai
Nhìn chung, các công trình viết về những địa danh ở Đồng Nai không nhiều.
Một số công trình thiên về việc giải thích những địa danh như cù lao Phố, Đồng
Nai… Những địa danh khác cũng được nhắc đến nhưng còn sơ sài. Có thể kể ra một
số tác phẩm sau đây:
Cuốn sách xưa nhất đề cập đến địa danh ở Đồng Nai là Phủ biên tạp lục
(1776) của Lê Quý Đôn. Tác giả đã đồng nhất đất Đồng Nai với cả vùng Nam Bộ.
Tác phẩm thứ hai là Gia Định thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức đã giải
thích nguồn gốc địa danh núi Nữ Tăng (tục danh núi Thị Vãi ở Long Thành) và Đại
phố Châu (tục danh cù lao Phố ở Biên Hòa).
Năm 1875, Trương Vĩnh Ký trong Petit cours de géographie de la Basse
Cochinchine (Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ) giới thiệu một số khái niệm lịch sử về
Nam Kỳ xưa. Trong đó, tác giả hệ thống hóa địa lý hành chính Nam Kỳ vào thế kỷ
XIX và đưa ra bảng so sánh giữa tục danh và tên chữ Hán của tỉnh Biên Hòa qua
các địa danh về hải khẩu, sông rạch, cù lao và núi non bên cạnh những tỉnh khác.
Đại Nam nhất thống chí (biên soạn xong năm 1882) của Quốc sử quán triều
Nguyễn cũng nhắc đến và giải thích một số địa danh của tỉnh Biên Hòa như tên núi
(núi Đất, núi Đỏ, núi Kí Sơn…), tên sông (sông Phước Long, sông Bối Diệp, sông
Thất Kỳ…), tên chợ (chợ Lộc Dã, chợ Bình Thảo, chợ Thiết Tượng…), tên cầu (cầu
Vạc, cầu Tân Bản, cầu Ván…). Còn Nguyễn Siêu trong Phương Đình dư địa chí
(1960) nêu lý giải mới về Biên Hòa.
Lương Văn Lựu qua tác phẩm Biên Hòa sử lược toàn biên (1960 - 1972) gồm
5 tập đã giới thiệu một cách khái quát lịch sử, địa lý, nhân vật ở tỉnh Đồng Nai từ
trước đến nay, trong đó tác giả có đưa ra và giải thích một số địa danh ở Đồng Nai.
Trong Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Biên Hòa (Đồng Nai, Sông Bé, Bà
Rịa, Vũng Tàu) (1994), Nguyễn Đình Đầu trình bày những thay đổi về địa danh
hành chính của tỉnh Đồng Nai (khi ấy còn gọi là trấn Biên Hòa, rồi đến tỉnh Biên
Hòa) từ năm 1808 đến năm 1994. Tác giả đã thống kê những địa danh làng bắt đầu
bằng những chữ như An, Bình, Chánh, Hưng, Long… và giải thích ý nghĩa của
chúng.
Tại cuộc hội thảo “Biên Hòa 300 năm” (6/1997), hai tác giả Đỗ Quyên với bài
viết Danh xưng Đồng Nai trong Miền Đông Nam Bộ lịch sử và phát triển và Lê
Trung Hoa trong tham luận Nguồn gốc, ý nghĩa và quá trình phát triển của địa danh
Đồng Nai đã giải thích về xuất xứ và nguồn gốc của địa danh Đồng Nai khá thuyết
phục.
Vương Hồng Sển trong Tự vị tiếng Việt miền Nam (1993) nói đến khá nhiều
địa danh xưa ở Đồng Nai như núi Lò Thổi, rạch Nước Lộn, suối Đồng Heo… và
giải thích một số tên gọi như rạch Đông, rạch Bà Ký, cù lao Phố…
Một số công trình khác đề cập đến những địa danh ở Đồng Nai như Huỳnh
Ngọc Trảng với bài vè Các đường sông lục tỉnh (1998), Bùi Đức Tịnh với Lược
khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ (1999)… Gần đây là cuốn Truyện kể về đất nước
và con người Đồng Nai (1996) của Nguyễn Yên Tri, Nhớ Biên Hòa (2005) của
Khôi Vũ, Biên Hòa sử lược diễn ca (2005) của Đinh Quang Dữa…
Ngoài những công trình kể trên, còn có một số bài báo, hay sách địa chí cũng
đề cập đến địa danh ở Đồng Nai và một vài địa danh khác.
Như vậy, cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
hệ thống về khía cạnh ngôn ngữ của địa danh tỉnh Đồng Nai. Hiện tại chỉ có công
trình nghiên cứu địa danh ở Đồng Nai về mặt văn hóa của tác giả Võ Nữ Hạnh
Trang (luận văn Thạc sĩ, 2006). Vì vậy, nghiên cứu địa danh tỉnh Đồng Nai về mặt
ngôn ngữ hiện nay là điều cần thiết phải làm.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ hệ thống địa danh tỉnh Đồng
Nai. Luận văn sẽ tập trung khảo sát tên gọi các đối tượng địa lý tồn tại trên địa bàn.
Cụ thể đó là địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên hay còn gọi là địa danh chỉ địa hình
(núi, đồi, gò, sông, rạch…), địa danh chỉ các công trình xây dựng (cầu, đường, bến
phà, bến đò, chợ…), địa danh hành chính (thành phố, thị trấn, thị xã, phường, xã,
ấp…), địa danh vùng (khu công nghiệp, giáo xứ…).
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn chủ yếu mô tả, khảo sát những địa danh về
mặt ngôn ngữ trên diện đồng đại và bước đầu tìm hiểu về một số nguồn gốc và ý
nghĩa của địa danh thuộc vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn Đồng Nai.
4. Mục đích nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung tìm hiểu về phương thức đặt địa danh,
phương thức cấu tạo, những chuyển biến về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, cũng như một
số nguồn gốc, ý nghĩa của địa danh tỉnh Đồng Nai. Nội dung được trình bày một
mặt mô tả những địa danh thuần Việt, Hán Việt, địa danh dân tộc thiểu số và ngoại
lai nhằm minh họa thêm một số vấn đề có tính chất lý luận về địa danh học; một
mặt làm sáng rõ những giá trị phản ánh hiện thực của địa danh. Qua đó, thấy được
mối quan hệ giữa địa danh học với các ngành khoa học khác như địa lý học, khảo cổ
học, văn hóa học, nhân chủng học, xã hội học, dân tộc học…
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập và xử lý tư liệu
Thu thập tư liệu là công việc đầu tiên của người nghiên cứu địa danh. Tư liệu
chúng tôi thu thập được bao gồm nhiều nguồn tư liệu khác nhau.
5.1.1. Tư liệu lưu trữ hành chính từ trước đến nay của các tỉnh, thành phố,
huyện, xã, ấp… Tư liệu này tồn tại dưới dạng các công báo, niên giám, tác phẩm,
hoặc có thể là văn bản đánh máy, viết tay của các viên chức địa phương còn lưu trữ
lại. Những tư liệu này có tính pháp lý, tính chính xác cao, có thể cho biết sự ra đời,
biến đổi hoặc mất đi của các địa danh, nhất là địa danh hành chính.
5.1.2. Bản đồ các loại về địa hình, hành chính, kinh tế, quân sự… của tỉnh
Đồng Nai và các huyện thị trong tỉnh là tư liệu quý giúp cho việc xác định tọa độ, vị
trí, địa điểm của từng địa danh. Qua việc khảo sát bản đồ, chúng tôi phát hiện được
những loại địa danh nào xuất hiện nhiều ở địa bàn nào, từ đó xác định nguồn gốc, ý
nghĩa của từng nhóm địa danh đó. Việc đối chiếu các bản đồ qua từng thời điểm
khác nhau có thể giúp xác định được sự ra đời, chuyển biến của các địa danh về mặt
ngữ âm hay ngữ nghĩa. Có những địa danh cũ mất đi và có những địa danh mới xuất
hiện.
5.1.3. Các báo địa phương, sách địa phương chí về địa bàn, các bài báo viết về
địa phương, một số tác phẩm văn học viết về địa phương… giúp người nghiên cứu
địa danh đỡ mất thì giờ trong việc tìm hiểu địa danh. Đây là những tư liệu do chính
người địa phương viết hay người am hiểu về địa phương thực hiện.
5.1.4. Các sách lý luận về địa danh học và ngôn ngữ học cũng như nguồn tư
liệu từ các loại từ điển khác nhau rất cần thiết cho việc nghiên cứu địa danh. Sách
viết về ngôn ngữ học và địa danh học ở trong và ngoài nước là những nguồn tư liệu
cơ bản, cần thiết để giúp người nghiên cứu xác định đúng hướng và ít tốn thời gian
trong công việc của mình. Còn các từ điển viết về địa danh, từ điển từ cổ, từ điển
phương ngữ… giúp xác định được thời điểm và thời gian ra đời của các địa danh.
5.1.5. Tư liệu điền dã được người nghiên cứu quan sát, thu thập, ghi chép và
chọn lọc trong quá trình đi thực tế. Những tư liệu này phục vụ cho việc lập bảng
thống kê, phân loại từng nhóm địa danh và giúp giải thích nguồn gốc, ý nghĩa, thời
điểm ra đời cũng như những biến đổi của địa danh một cách chính xác.
5.2. Phương pháp thống kê, phân loại, miêu tả
Đây là phương pháp bắt buộc phải có khi bắt tay vào nghiên cứu địa danh và
cũng là phương pháp chủ yếu được vận dụng trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Dựa vào nguồn tư liệu đã được thu thập, chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại và
miêu tả các địa danh để thấy rõ số lượng từng loại. Từ đó, có thể rút ra đặc điểm
riêng của từng loại và đặc điểm chung của địa danh toàn vùng. Chẳng hạn sau khi
thống kê, phân loại, chúng tôi chia địa danh thành các loại như địa danh chỉ địa
hình, địa danh chỉ công trình xây dựng, địa danh hành chính, địa danh thuần Việt,
địa danh Hán Việt… Trên kết quả phân loại, tiếp theo người nghiên cứu sẽ miêu tả
những phương thức định danh, cách cấu tạo địa danh, những chuyển biến của nó.
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
5.3.1. So sánh, đối chiếu đồng đại
Phương pháp so sánh đối chiếu đồng đại là phương pháp tìm ra những nét
tương đồng và dị biệt của địa danh vùng này so với địa danh vùng khác. Chẳng hạn,
nếu như ở Vĩnh Long, yếu tố Cái xuất hiện nhiều trong địa danh thì ở Đồng Nai rất
khó tìm thấy địa danh mang yếu tố này (ngoại trừ hai di tích Cái Lăng và Cái Vạn
thuộc huyện Long Thành). Hoặc do sự khác biệt về địa lý mà Hải Phòng có nhiều
Đối tượng địa lý ở vùng biển và ven biển (như biển, bãi biển, cửa biển, đá ngầm,
cát, bán đảo…) nhưng lại có ít từ chỉ sông nước. Còn ở Đồng Nai, sông rạch là chủ
yếu, điển hình là con sông Đồng Nai lớn nhất tỉnh và vì vậy mà cũng có nhiều từ chỉ
sông nước hơn so với Hải Phòng (như sông, rạch, bàu, vàm, lòng tắt, hóc, tắt…).
5.3.2. So sánh, đối chiếu lịch đại
Sử dụng phương pháp này để xác định nguồn gốc và ý nghĩa ban đầu của địa
danh, tức là quan tâm đến mặt ngữ âm của tiếng Việt và quy luật biến đổi của nó
trong lịch sử. Tuy nhiên, ở phương pháp này, chúng tôi chỉ chú ý đối với một số đối
tượng nhất định nếu có cứ liệu cụ thể.
Địa danh vốn mang trong mình nhiều mặt khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa,
lịch sử, xã hội… vì vậy, nghiên cứu địa danh cần áp dụng phương pháp nghiên cứu
tổng hợp, liên ngành, đa ngành. Có như vậy, kết quả nghiên cứu mới đầy đủ, rõ ràng
và mang tính khoa học hơn.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn chia làm ba phần. Ngoài phần dẫn luận và phần kết luận, phần chính
của luận văn có bốn chương:
Chương 1: Những tiền đề lý luận và thực tiễn
Chương 2: Cấu tạo địa danh tỉnh Đồng Nai
Chương 3: Đặc điểm về mặt chuyển biến
Chương 4: Nguồn gốc - ý nghĩa của một số địa danh ở Đồng Nai và giá trị
phản ánh hiện thự
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 118
👁 Lượt xem: 916
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 242
👁 Lượt xem: 1162
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 74
👁 Lượt xem: 481
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 58
👁 Lượt xem: 569
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 58
👁 Lượt xem: 647
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 127
👁 Lượt xem: 663
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 380
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 583
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 33
👁 Lượt xem: 734
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem