Mã tài liệu: 303134
Số trang: 30
Định dạng: pdf
Dung lượng file: 6,969 Kb
Chuyên mục: Quản trị kinh doanh
Lời mở đầu
Bảo hiểm xã hội ở nớc ta là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc đối
với ngời lao động. Vì vậy ngay từ những ngày đầu khi mới thành lập Nớc, chế độ chính sách
bảo hiểm xã hội đã đợc ban hành và do điều kiện đấu tranh giải phóng dân tộc, điều kiện
kinh tế, xã hội đã từng bớc đợc thực hiện đối với công nhân viên chức khu vực Nhà nớc.
Trong quá trình thực hiện, chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội không ngừng đợc bổ sung,
sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nớc nhằm đảm bảo quyền lợi đối với
ngời lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế nớc ta
bắt đầu chuyển sang hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trờng dới sự quản lý của Nhà nớc, với
cơ chế này, nhiều vấn đề về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội trớc đây không còn phù hợp.
Bộ Luật lao động đợc Quốc hội thông qua năm 1994 có hiệu lực thi hành từ 1/1/1995, trong
đó chế độ chính sách bảo hiểm xã hội cũng đợc quy định trong Chơng XII bộ Luật này và có
liên quan đến một số điều ở các chơng khác. Để thể chế các quy định trong Bộ Luật lao
động, năm 1995 Chính phủ đã ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số
12/CP, Nghị định số 45/CP quy định cụ thể về đối tợng tham gia, mức đóng góp, điều kiện
để đợc hởng, mức hởng đối với từng chế độ, đồng thời quy định hình thành Quỹ bảo hiểm xã
hội và giao cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam thống nhất quản lý
I. Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội Việt nam
1. Sự tất yếu khách quan hình thành bảo hiểm xã hội.
Trong cuộc sống, con ngời muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải thỏa mãn các nhu
cầu tối thiểu về vật chất và tinh thần, hay nói một cách khác mỗi con ngời đều phải lao động
để nuôi sống bản thân và tồn tại trong xã hội. Trong thực tế không phải lúc nào cuộc sống và
lao động cũng đều thuận lợi, có thu nhập thờng xuyên và mọi điều kiện sinh sống bình thờng,
mà có rất nhiều trờng hợp gặp khó khăn, bất lợi phát sinh làm cho ngời ta bị giảm hoặc mất
thu nhập nh bất ngờ bị ốm đau, tai nạn lao động, mắc các bệnh do nghề nghiệp gây nên hoặc
theo đúng quy luật khi tuổi già không còn khả năng lao động. Khi rơi vào các trờng hợp bị
giảm hoặc mất khả năng lao động nói trên, các nhu cầu cấp thiết của cuộc sống con ngời
không vì thế mà mất đi. Ngợc lại còn đòi hỏi tăng lên, thậm chí xuất hiện thêm nhu cầu mới
nh ốm đau cần đợc chữa bệnh, tai nạn lao động cần có ngời phục vụ... Bởi vậy, muốn tồn tại
con ngời và xã hội cần phải tìm ra những biện pháp để khắc phục.
ở xã hội công xã nguyên thủy, do cha có t liệu sản xuất, mọi ngời cùng nhau hái lợm,
săn bắn, sản phẩm thu đợc, đợc phân phối bình quân nên khó khăn, bất lợi của mỗi ngời đợc
cả cộng đồng san sẻ, gánh chịu. Chuyển sang xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào bổng
lộc của nhà Vua, dân c thì dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau trong họ hàng cộng đồng làng, xã
hoặc của những ngời hảo tâm hoặc một phần từ Nhà nớc. Nhng sự trợ giúp này không đảm
bảo thờng xuyên và cơ bản.
Cùng với sự phát triển của xã hội, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hóa phát triển,
theo đó xuất hiện lao động làm thuê và ngời làm chủ. Lúc đầu ngời chủ chỉ cam kết trả công
lao động, nhng về sau họ đã phải cam kết cả việc đảm bảo cho ngời làm thuê có một số thu
nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi ốm đau, tai nạn, thai
sản, tuổi già... Trong thực tế, nhiều khi các trờng hợp trên không xảy ra nên ngời chủ không
phải chi một đồng tiền nào. Nhng có khi lại xảy ra dồn dập, buộc ngời chủ phải bỏ ra một
khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế giới chủ đã dần dần không thực hiện những cam
kết ban đầu, dẫn đến việc tranh chấp giữa giới chủ và ngời lao động. Để giải quyết mâu
thuẫn này, đã xuất hiện "bên thứ ba" đóng vai trò trung gian nhằm điều hòa lợi ích giữa giới
chủ và thợ. Điều này có ý nghĩa là, thay vì phải chi trực tiếp những khoản tiền lớn đột xuất
cho ngời lao động khi họ gặp bất trắc, giới chủ có thể trích ra thờng xuyên hàng tháng một
khoản tiền nhỏ dựa trên cơ sở xác xuất những biến cố của tập hợp những ngời lao động làm
thuê. Số tiền này đợc giao cho bên thứ ba quản lý đợc tồn tích dần thành một quỹ. Khi ngời
lao động bị ốm đau, tai nạn... "bên thứ ba" sẽ chi trả theo cam kết không phụ thuộc vào giới
chủ có muốn hay không muốn. Nh vậy, một mặt giới chủ đỡ bị thiệt hại về kinh tế, mặt khác ngời
lao động làm thuê đợc đảm bảo chắc chắn bù đắp một phần thu nhập khi bị ốm đau, tai nạn
và khi về già. Tuy nhiên, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, năng suất lao động đòi hỏi cần
đợc tăng lên, dẫn đến "rủi ro" lao động càng lớn. Lúc này giới thợ luôn mong muốn đợc bảo
đảm nhiều hơn, còn ngợc lại giới chủ lại mong muốn phải chi ít hơn, tức là phải đảm bảo
cho giới thợ ít hơn, do đó việc tranh chấp về lợi ích lại xảy ra. Trớc tình hình đó Nhà nớc đã
phải can thiệp và điều chỉnh. Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của Nhà nớc, giới
chủ buộc phải đóng thêm, đồng thời giới thợ cũng phải đóng góp một phần vào sự bảo đảm
cho chính mình. Cả giới chủ và giới thợ đều cảm thấy mình đợc bảo vệ. Các nguồn đóng góp
của giới chủ, thợ và sự hỗ trợ của Nhà nớc đã hình thành nên Quỹ bảo hiểm xã hội. Do tập
trung nên quỹ có khả năng giải quyết các phát sinh của rủi ro cho tập hợp ngời lao động
trong toàn xã hội
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 73
👁 Lượt xem: 367
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 95
👁 Lượt xem: 547
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 28
👁 Lượt xem: 2463
⬇ Lượt tải: 28
📎 Số trang: 24
👁 Lượt xem: 436
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 8
👁 Lượt xem: 409
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 63
👁 Lượt xem: 369
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 108
👁 Lượt xem: 558
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 68
👁 Lượt xem: 318
⬇ Lượt tải: 12
📎 Số trang: 70
👁 Lượt xem: 364
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 58
👁 Lượt xem: 977
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 26
👁 Lượt xem: 493
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem