Mã tài liệu: 218237
Số trang: 43
Định dạng: doc
Dung lượng file: 251 Kb
Chuyên mục: Kế toán - Kiểm toán
LỜI NÓI ĐẦU
Công ty thiết kế Công nghiệp Hoá là một doanh nghiệp nhà nước, thuộc Tổng công ty Hoá chất Việt Nam được thành lập năm 1967 trải qua 30 năm hoạt động, thăng trầm theo lịch sử đó nhiều lần đổi tên, có lúc là Viện nghiên cứu, một thời là doanh nghiệp vừa sản xuất vừa kinh doanh vừa nghiên cứu khoa họa, một thời là đơn vị nghiên cứu triển khai, thời kỳ 1985 đến 1986 trở lại đây là doanh nghiệp vừa sản xuất kinh doanh vừa nghiên cứu khoa học. Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt hiện nay, để tồn tại và đứng vững trên thị trường quả không phải là vấn đề đơn giản với bất kỳ doanh nhgiệp nào. Để đạt được mục tiêu lợi nhuận đó đề ra, đũi hỏi cỏc doanh nghiệp phải cú một đội ngũ cán bộ quản lý có trỡnh độ, năng lực thực sự, biết quản lý điều hành kinh doanh, biết sử dụng các yếu tố đầu vào hợp lý, biết đánh giá, đưa ra những quyết định sáng suốt về nhu cầu thực sự của thị trường Mặc dù vậy, trong khó khăn công ty luôn chuyển mỡnh phự hợp với cơ chế, kể cả với cơ chế thị trường. Công tác tổ chức quản lý kinh doanh núi chung và cụng tỏc tổ chức kế toỏn núi riờng cú nhiều cố gắng đạt những kết quả đáng khích lệ.
Một trong những yếu tố làm nên sự thành công đó của công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất là việc biết kiểm soát, khống chế được chi phí kinh doanh. Như ta đó biết, quỏ trỡnh dản xuất là quỏ trỡnh kết hợp đồng thời cũng là quá trỡnh tiờu hao cỏc yếu tố lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong đó lao động với tư cách là hoạt động chân tay và trí óc của con người sử dụng các tư liệu lao động nhằm tác động biến đổi các đối tượng lao động thành các vật phẩm có ích nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt của mỡnh. Để đảm bảo tiến hành liên tục quá trỡnh tỏi sản xuất, trước hết cần phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động, nghĩa là sức lao động mà con người bỏ ra phải được bồi hoàn dượi dạng thù lao lao động. Tiền lương chính là phần thù lao lao động được thể hiện bằng tiền mà doanh nghiệp trả cho người lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng lao động. Về bản chất, tiền lương chính là biểu hiện bằng tiền của giá cả sức lao động, mặt khác tiền lương cũn là đũn bẩy kinh tế để khuyến khích tinh thần hăng hái lao động, kích thích tạo mối quan tâm của người lao động đến kết quả công việc của họ.
Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với lao động, tiền tệ và nền sản xuất hàng hoá. Theo điều kiện tồn tại nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ thỡ iền lương là một yếu tố của sản xuất kinh doanh, cấu thành nên gía thành của sản phẩm, dịch vụ. Chi phí về lao động có một ý nghĩa rất quan trọng đối với một doanh nghiệp nói chung và fối với trực tiếp người lao động nói riêng. Kế toán tiền lương và các khoản tính theo lương là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý của bất kỳ một doanh nghịờp nào. Mỗi doanh nghiệp đều có một hỡnh thức, quan niệm và cách thức trả lương khác nhau. Tuy nhiên các doanh nghiệp mong muốn có được một cách tính, cách chi trả và hoạch toán tiền lương phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp mỡnh. Do cú sự thay đổi về mặt kinh tế xó hội, đặc thù sản xuất kinh doanh và nhu cầu của người lao động nên tiền lương ở mỗi doanh nghiệp đều có những tồn tại. Các nhà quản lý doanh nghiệp cũng đang lỗ lực và mong muốn khắc phục những tồn tại đó để hoàn thiện cơ chế tiền lương ở doang nghiệp mỡnhcủa Một cơ chế trả lương thích hợp là đảm bảo được phần lớn đời sống cán bộ công nhân viên và xứng đáng với công viêc mà người lao động bỏ ra. Hoạch toán kế toán tiền lương và các khoản tính theo lương tốt sẽ giúp doanh nghiệp sử dụng lao động hiệu quả và tiết kiệm được chi phí về tiền lương, góp phần giúp doanh nghiệp hoàn thành và giảm được chi phí sản xuất kinh doanh.
Với tầm quan trọng và ý nghĩa của việc hoạch toỏn tiền lương qua thời gian thực tập tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất em đó lựa chọn đề tài: ” HOÀN THIỆN HOẠCH TOÁN LAO ĐỘNG VÀ TIỀN LƯƠNG TẠI CÔNG TY THIẾT KẾ CÔNG NGHIỆP HOÁ CHẤT ” cho chuyên đề của mỡnh.
Trong chuyên đề có 3 nội dung chính sau:
Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạch toán lao động và tiền lương trong các doanh nghiệp nói chung và trong doanh nghiệp xõy lắp núi riờng.
Phần II: Thực trạng hoạch toán lao động và tiền lương tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất.
Phần III: Hoàn thiện hoạch toán lao động và tiền lương tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất.
Phần I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠCH TOÁN LAO ĐỘNG VÀ TIỀN LƯƠNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆPNÓI CHUNG VÀ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP NÓI RIÊNG
1.1 Bản chất và vai trũ của tiền lương và lao động:
1.1.1 Khỏi niệm, bản chất, ý nghĩa của tiền lương:
Để tiến hành hoạt động sản xuất, chúng ta cần phải có 3 yếu tố cơ bản sau:
ỹ Tư liệu lao động
ỹ Đối tượng lao động
ỹ Và lao động
Trong đó lao động là yếu tố có tính chất quyết định. Lao động là hoạt động chân tay và hoạt động trí óc của con người nhằm biến đổi các vật thể tự nhiên thành những vật phẩm cần thiết để thoả món nhu cầu của xó hội. Trong một chế độ xó hội, việc sỏng tạo ra của cải vật chất khụng thể tỏch rời khỏi lao động, lao động là điều kiện đầu tiên, cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xó hội. Xó hội càng phỏt triển, tớnh quyết định của lao động con người đối với quỏ trỡnh tạo ra của cải vật chất cho xó hội càng biểu hiện rừ rệt. Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với lao động, tiền tệ và nền sản xuất hàng hoá .
Để đảm bảo tiến hành liên tục quá trỡnh tỏi sản xuất, trước hết cần phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động, nghió là sức lao động mà con người bỏ ra phải được bồi thường dưới dạng thù lao lao động. Tiền lương là biểu hịên bằng tiền của bộ phận sản phẩm xó hội mà người lao động. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của bộ phận sản phẩm xó hội mà người lao động được sử dụng để bù đắp hao phí lao động của mỡnh trong quỏ trỡnh sản xuất nhằm tỏi sản xuất sức lao động.
Mặt khác, tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá trị sản phẩm do lao động tạo ra. Tuỳ theo cơ chế quản lý mà tiền lương có thể được xác định là một bộ phận của chi phí sản xuất kinh doanh cấu thành nên giá thành sản phẩm hay được xác định là một bộ phận của thu nhập - kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
Tiền lương là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo chức năng nghiệp vụ quy định, là giá cả sức lao động. Nó được hỡnh thành trờn cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động. Cả hai chủ thể đó đều chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, trong đó quy luật cung cầu và quy luật giá trị giữ vai trũ chủ đạo. Trong việc trả lương cho người lao động trong lao động sản xuất thỡ Nhà nước cũng tham gia một cách gián tiếp bằng cách tạo ra một môi trường thuận lợi cho cả hai chủ thể. Mỗi chế độ chính trị và các mức lương cụ thể đều do Nhà nước thống nhất ban hành để đảm bảo cho người lao động có nguồn thu nhập tối thiểu để họ thoả món nhu cầu chung như: ăn, ở, sinh hoạt, đi lại ở mức cần thiết .
Lao động của con người là yếu tố trung gian, giữ vai trũ quyết định trong quá trỡnh sản xuất. Việc đánh giá đúng vai trũ của con người trong lao động, sản xuất sẽ tạo ra kết quả theo ý muốn. Tuy nhiờn, lao động không phải là hàng hoá vỡ nú là hoạt động có ý thức của con người tác động vào tự nhiên thông qua các tư liệu sản xuất để đem lại những sản phẩm có ích cho xó hội. Người ta mua bán khả năng lao động - sức lao động của mỗi người. Người lao động sau khi sử dụng sức lao động của mỡnh tạo ra sản phẩm thỡ được trả một số tiền công nhất định. Như vậy sức lao động của người lao động được đem ra trao đổi để lấy tiền công. Vậy có thể coi sức lao động là một hàng hoá đặc biệt và tiền lương, tiền công chính là giá cả của hàng hoá. Hàng hoá sức lao động cũng như mọi hàng hoá khác đều có hai thuộc tính, đó là: giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của sức lao động chính là năng lực sáng tạo ra những giá trị lao động mới trong hàng hoá và trong tiêu dùng hay thực hiện giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động diễn ra trong quỏ trỡnh sản xuất.
Giá trị hàng hoá sức lao động là chi phí đào tạo, là những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trỡ đời sống của người lao động và gia đỡnh họ, giỳp họ khụi phục lại những hao phớ về năng lực, thể chất và tinh thần sau quá trỡnh lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động thay đổi trong từng giai đoạn và có sự khác nhau giữa các vùng, giữa các quốc gia do tiêu dùng và đời sống của mỗi con người và mỗi tầng lớp dân cư là khác nhau. Tiêu chuẩn đời sống con người liên quan mật thiết tới thu nhập của họ. Thu nhập của một người tăng thỡ mức sống của anh ta cũng được cải thiện và nâng cao. Ngược lại, thu nhập của một người giảm thỡ mức sống của anh ta cũng giảm và khú khăn hơn.
Trong nền kinh tế thị trường, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, sức lao động đó được thừa nhận là hàng hoá. Vỡ vậy thị trường sức lao động, hội chợ việc làm, trung tâm giới thiệu việc làm v.v .được hỡnh thành là một điều tất yếu người ta có quyền tự do lựa chọn công việc, người làm việc theo giá cả mà họ cho là hợp lý, do đó mà giá cả lao động luôn biến đổi.
Vỡ là hàng hoỏ nờn sức lao động được đem ra trao đổi trên thị trường lao động trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Giá cả sức lao động có thể tăng hoặc giảm tuỳ thuộc vào cung cầu hàng hoá sức lao động. Nếu cung lớn hơn cầu thỡ giỏ cả sức lao động giảm và ngược lại nếu có cầu lớn hơn cung thỡ giỏ cả sức lao động sẽ tăng lên. Bên cạnh đó giá cả sức lao động cũn tuỳ thuộc vào giỏ trị cỏc tư liệu sinh hoạt.
Giá tiền công luôn biến động song nó phải xoay quanh giá trị sức lao động. Bởi vỡ hàng hoỏ sức lao động cũng như các loại hàng hoá khác, nó đũi hỏi khỏch quan yờu cầu tớnh đúng, tính đủ giá trị của nó. Tuy nhiên dù giá tiền công biến động thỡ vẫn phải luụn đảm bảo mức lương tối thiểu cho người lao động để họ có thể tái sản xuất sức lao động của mỡnh, tiếp tục làm việc.
Trong cơ chế thị trường, tiền công chỉ cho những hoạt động có ích, những hoạt động mang lại giá trị vật chất hoặc tinh thần cho xó hội. Song tiền cụng mà người sử dụng lao động trả cho người lao động lại căn cứ vào số lượng, chất lượng sản phẩm được sản xuất ra, ai làm nhiều, ai có trỡnh độ tay cao, tạo ra nhiều sản phẩm người đó sẽ nhận được nhiều tiền công. Và ngược lại ai làm ít, có trỡnh độ tay nghề thấp, làm ra được ít sản phẩm hơn họ sẽ nhận được tiền công ít hơn. Sự công bằng xó hội là làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít và không làm thỡ khụng hưởng. Bản chất của tiền công là giá cả sức lao động, tiền lương là biểu hiện bằng tiền của chi phí nhân công mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc mà họ đó cống hiến cho doanh nghiệp
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 50
👁 Lượt xem: 372
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 77
👁 Lượt xem: 748
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 80
👁 Lượt xem: 35
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 80
👁 Lượt xem: 453
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 50
👁 Lượt xem: 351
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 43
👁 Lượt xem: 367
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 77
👁 Lượt xem: 462
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 66
👁 Lượt xem: 408
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 67
👁 Lượt xem: 293
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 85
👁 Lượt xem: 567
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 57
👁 Lượt xem: 421
⬇ Lượt tải: 18
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 43
👁 Lượt xem: 392
⬇ Lượt tải: 16