Tìm tài liệu

Tinh thai giam nhe trong dien ngon tieng Viet

Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt

Upload bởi: rainbowsix

Mã tài liệu: 297498

Số trang: 146

Định dạng: pdf

Dung lượng file: 958 Kb

Chuyên mục: Ngôn ngữ học

Info

MS: LVNNH031

SỐ TRANG: 146

TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC

NĂM: 2010

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Có thể nói vấn đề tình thái trong ngôn ngữ không phải là mới. Từ triết học Hy Lạp cổ đại,

khái niệm tình thái của logic học được hình thành dựa trên tính hiện thực (reality), tính tất yếu

(necessity) và tính khả hữu (possibility) được phản ảnh trong ngôn ngữ tự nhiên với muôn vàn

sắc thái đa dạng. Khi sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt về thế giới thực tại, người ta không thể

không lưu ý đến mối quan hệ giữa cách con người diễn đạt về thế giới và chính bản thân thế giới

đó. Theo nghĩa rộng, có thể hiểu nói về tình thái là nói về cách mà con người diễn đạt khác nhau

về thế giới.

Hơn nữa một trong hai chức năng cơ bản của ngôn ngữ là giao tiếp xã hội. Trong quá trình

giao tiếp, hoạt động trao đổi giữa người nói và người nghe là hoạt động được tiến hành từ cả hai

phía. Trong mỗi câu nói của người này hay người kia ngoài nội dung nghĩa biểu hiện, tức nghĩa

biểu thị sự tình trong thế giới khách quan, còn có một nội dung nghĩa biểu thị mối quan hệ giữa

sự tình với thế giới khách quan hoặc thái độ của người nói. Nội dung đó, ta gọi là tình thái của

câu. Charles Bally đã cho rằng tính tình thái là linh hồn của câu. Không thể tạo ra ý nghĩa lời nói

nếu trong lời nói ấy ta không tìm thấy một biểu hiện nào đó của tính tình thái.

Mặt khác vấn đề tình thái mà cụ thể là tình thái giảm nhẹ (TTGN) còn gắn liền với tính lịch

sự trong giao tiếp, gắn với ngôn ngữ trong sự hành chức của nó. Không thể chỉ xem xét ngôn

ngữ như một yếu tố tĩnh tại mà là một hoạt động mang tính liên cá nhân. Giao tiếp như thế nào

để đạt được hiệu quả giao tiếp và hơn thế nữa làm thế giao tiếp phải thể hiện nét văn hóa, lịch sự

là một điều quan trọng. Nắm bắt về TTGN mà cụ thể là việc nắm bắt hệ thống các phương tiện

biểu thị TTGN sẽ góp phần giúp cho hoạt động giao tiếp đạt được những yêu cầu này.

Về lĩnh vực tình thái trong tiếng Việt, từ những năm 40 với các tác giả Trần Trọng Kim,

Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ trong “Grammaire Annamite”, tình thái đã được chú ý đến khi các tác

giả đề cập đến “thái độ của người nói”. Sau này, những nghiên cứu có tính chất khai phá và đi

sâu hơn về tình thái đã xuất hiện với các tác giả như Hoàng Phê , ; Nguyễn Đức Dân

; Cao Xuân Hạo , , . Rồi đến những chuyên khảo về tình thái cũng liên tục xuất

hiện từ Phạm Hùng Việt ; Nguyễn Văn Hiệp , , , ; Phạm Thị Ly ;

Nguyễn Thị Lương ; Nguyễn Thị Ngọc Hân …Các tác giả nghiên cứu nhiều phương

diện của vấn đề tình thái như: nghĩa tình thái của từ; logic tình thái đến logic ngôn ngữ học; từ

ngữ pháp chức năng đến ngữ dụng học và đặc trưng tình thái của từ, của câu; chuyên sâu hơn về

đặc điểm chức năng của trợ từ tiếng Việt, về tiểu từ tình thái, vị từ tình thái…Tuy nhiên, nghiên

cứu về TTGN mà cụ thể hơn nghiên cứu chi tiết để hệ thống hóa các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt vẫn còn bỏ ngỏ cho dù thực tế việc sử dụng các phương tiện biểu thị

TTGN rất phổ biến trong diễn ngôn tiếng Việt

Những vấn đề đã trình bày ở trên đã khuyến khích chúng tôi chọn đề tài “Tình thái giảm nhẹ

trong diễn ngôn tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu của mình.

Về mặt lí luận: Trên cơ sở kế thừa và phát triển các thành tựu đã có, khi nghiên cứu về

TTGN và xây dựng được một hệ thống các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng

Việt, chúng tôi hy vọng mang đến một cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn về vấn đề tình thái trong

ngôn ngữ nói chung, trong tiếng Việt nói riêng.

Về mặt thực tiễn: Chúng tôi mong rằng luận văn sẽ góp phần trong việc ứng dụng cho việc

giao tiếp và dạy tiếng. Giao tiếp sẽ đạt được hiệu quả tối ưu khi biết vận dụng những phương

tiện tình thái trong đó có phương tiện TTGN. Việc dạy tiếng Việt cho người Việt cũng như cho

người nước ngoài sẽ đơn giản hơn, hiệu quả hơn khi chúng ta giúp họ nhận biết và sử dụng một

hệ thống phương tiện biểu thị tình thái nói chung TTGN nói riêng của tiếng Việt. Bởi nó là một

trong những cơ sở để người nói tạo dựng phát ngôn cũng như để người nghe tiếp nhận và nắm

bắt đúng ý định giao tiếp của người nói.

2. Lịch sử vấn đề

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TTGN, các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn

ngôn tiếng Việt nhưng qua quá trình tổng hợp và tham khảo tài liệu chúng tôi nhận thấy những

công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề trên còn rất hạn chế, có thể nói chỉ có một bài viết

của tác giả Nguyễn Xuân Thơm là đề cập đến TTGN nhưng giới hạn trong diễn ngôn đàm

phán thương mại quốc tế. Bởi vậy, trong phần lịch sử vấn đề, chúng tôi sẽ điểm qua một số công

trình nghiên cứu có tính chất nổi bật về vấn đề tình thái trong tiếng Việt nói chung, trong đó có

những nghiên cứu đề cập đến một số vấn đề về phương tiện biểu thị tình thái.

Về các tác giả nước ngoài: Các tác giả I. I. Glebova, V.M. Solntsev, Yu. Lekomtsev,

Bystrov khi viết về ngữ pháp tiếng Việt (bằng tiếng Nga) đã có đề cập đến tiểu từ tình thái. Họ

phân loại tiểu từ tình thái theo tiêu chí ngữ nghĩa như: tiểu từ có tính chất nghi vấn, tiểu từ nhấn

mạnh, tiểu từ chỉ ra sự đối lập. Tuy nhiên họ xem tiểu từ tình thái như là một từ loại của tiếng

Việt hơn là một phương tiện biểu thị tình thái [theo 51; 34]. Một tác giả nước ngoài khác cũng

quan tâm đến ngữ pháp tiếng Việt, đó là V.S. Panfilov (2003). Trong chương VIII của cuốn sách

“Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt” (cũng viết bằng tiếng Nga do Nguyễn Thủy Minh dịch), ông

đã trình bày về bán hư từ, trong đó có đề cập ngắn gọn đến từ tình thái. Ông cho rằng: “Lớp ngữ

pháp này bao gồm những từ như: có lẽ, hình như, quả nhiên, đương nhiên…Những từ này được sử dụng với chức năng định ngữ của câu, thể hiện sự đánh giá đối với sự việc được nhắc tới

trong câu, hoặc đối với chính phát ngôn như một hành động lời nói” [62; 277]. Như vậy, có thể

thấy chưa có một tác giả nước ngoài nào nghiên cứu chuyên sâu về tình thái cũng như những

phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt.

Về các tác giả trong nước: Có thể chia các công trình nghiên cứu có liên quan đến tình thái

trong tiếng Việt thành hai nhóm:

(1) Các tác giả không trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái nhưng trong quá trình xử lí các

vấn đề khác họ đã có ít nhiều đụng chạm đến một bộ phận vấn đề tình thái, như: Nguyễn Kim

Thản (1977), Đái Xuân Ninh (1978), Lê Cận – Phan Thiều (1983), Bùi Tất Tươm (1997), Đinh

Văn Đức (2001), Diệp Quang Ban (2008), Nguyễn Thiện Giáp (2008).

(2) Các tác giả trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái, họ nghiên cứu rất chi tiết và có nhiều

kiến giải sâu sắc vấn đề tình thái trên nhiều phương diện khác nhau. Có thể kể đến những tên

tuổi như: Hoàng Phê, Hồ Lê, Phan Mạnh Hùng, Nguyễn Đức Dân, Hoàng Tuệ, Phạm Hùng Việt,

Huỳnh Văn Thông, Nguyễn Thị Lương, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Văn Hiệp, Lê Đông, Nguyễn

Xuân Thơm, Phạm Thị Ly, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Thị Ngọc Hân, Ngô Thị Minh, Võ

Đại Quang. Chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về một số đóng góp của các tác giả nhóm 2 này.

Có thể nói Hoàng Phê với bài viết “Phân tích ngữ nghĩa” (1975) , “Toán tử logic – tình

thái” (1984) và Hồ Lê (1979) với bài viết “Vấn đề logic ngữ nghĩa và tính thông tin trong

lời nói” đã gợi mở cho nhiều nghiên cứu về nghĩa tình thái xuất hiện sau này. Hoàng Phê

(1984) đi sâu trong việc vận dụng logic của ngôn ngữ tự nhiên để phân tích ngữ nghĩa của một

số từ thường dùng hoặc của những đơn vị mà ông gọi là “toán tử logic – tình thái” – phương tiện

biểu thị tình thái. Ông cho rằng “nếu quan niệm toán tử trong ngôn ngữ là những đơn vị ngôn

ngữ mà khi dùng tác động đến các đơn vị ngôn ngữ thuộc một cấp độ nào đó thì cho ta những

đơn vị ngôn ngữ mới (thường là cùng cấp độ), thì có thể nói rằng có toán tử ở tất cả các cấp độ”

[65; 5]. Như vậy có toán tử ở cấp độ ngữ âm như thanh điệu, cấp độ từ vựng, cấp độ cú

pháp...“Về hình thức toán tử logic – tình thái có thể là một từ, một tổ hợp từ (có khi có hình thức

câu) hoặc chỉ đơn giản là một ngữ điệu” [65; 7]. Cũng trong “Toán tử logic – tình thái”, ông

phát biểu rằng “Con người sử dụng ngôn ngữ không chỉ nói về hiện thực, mà còn nói nhận thức,

sự đánh giá, thái độ của mình, không những nói bằng hiển ngôn, mà còn dùng tiền giả định và

nói bằng hàm ngôn. Tất cả những điều đó làm cho tương ứng với các kết tố mệnh đề, ngôn ngữ

tự nhiên sử dụng một loạt những toán tử logic – tình thái có chức năng tạo ra những lời có yếu tố

tình thái và có thể có cấu trúc ngữ nghĩa nhiều tầng (tiền giả định, hiển ngôn, hàm ngôn)” [65;

7]. Rõ ràng những công trình của Hoàng Phê nêu trên là những đóng góp quý báu cho việc nghiên cứu các phương tiện biểu thị tình thái nói chung, TTGN nói riêng. Sau này, Hồ Lê

(1992), trong “Cú pháp tiếng Việt” , còn xem trật tự từ như là một trong những phương tiện

diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Việt. Việc đảo trật tự, thay đổi cấu trúc của câu có thể thể

hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào điểm nhấn nào đó trong phát ngôn.

Năm 1985, Phan Mạnh Hùng có bài viết “Các kiểu tổ hợp tiểu từ tình thái tiếng Việt và

ranh giới từ” . Tác giả đã có những nhìn nhận sâu hơn về tiểu từ tình thái tiếng Việt trong

khung nghiên cứu từ loại như vị trí các tiểu từ trong hệ thống từ loại, khả năng các tiểu từ kết

hợp với nhau….

Cũng đi vào lĩnh vực phân tích ngữ nghĩa của lời nhưng ở góc độ của logic tình thái, Nguyễn

Đức Dân (1987) đã có những công trình có tính chất quan trọng về logic tình thái. Trong “Logic

– Ngữ nghĩa – Cú Pháp” , ông cho rằng: “Logic tình thái là một công cụ hữu hiệu để miêu

tả và nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên. Và các ngôn ngữ tự nhiên cũng đặt ra hàng loạt vấn đề về

tình thái logic” [11; 39]. Nguyễn Đức Dân đã có cái nhìn tổng quát về vấn đề tình thái như sau:

“Tình thái là một vấn đề rất rộng và còn rất mông lung mà các nhà logic học, các nhà kí hiệu học

và các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Nhưng từ các cách tiếp cận khác nhau và các phương pháp

khác nhau lại dẫn đến những kết quả gặp gỡ nhau” [11; 40]. Tác giả cũng nêu ra tính đa nghĩa

của từ tình thái. Chỉ cần thay thế từ tình thái này bằng từ tình thái khác trong cùng một phát

ngôn sẽ dẫn đến những cách hiểu khác nhau về phát ngôn đó (ví dụ từ có thể và từ phải). Và tác

giả còn cho rằng điều đó là do các tác tử tình thái thuộc về hai lớp tình thái khác nhau: tình thái

đạo nghĩa và tình thái nhận thức [11; 41].

Hoàng Tuệ (1988) với hai bài viết: “Nhận xét về thời, thể và tình thái trong tiếng Việt” [87;

729] và “Về khái niệm tình thái” [87; 734] in trong “Hoàng Tuệ tuyển tập Ngôn ngữ học”

(2001) cho ta một cái nhìn khái quát về vấn đề tình thái trong tương quan đối chiếu với khái

niệm thời, thể và tình thái trong ngôn ngữ Châu Âu. Tác giả cũng đề cập đến sự thể hiện ý nghĩa

tình thái trong tiếng Việt.

Luận án phó tiến sĩ của Phạm Hùng Việt năm 1996, sau này được xuất bản thành sách có tựa

đề “Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại” (2003) , đã đề cập đến chức năng cơ bản của những

đơn vị mà ông gọi là “trợ từ câu”, “trợ từ bộ phận” trong tiếng Việt hiện đại. Cũng trong cuốn

sách này, khi trình bày về phạm trù tính tình thái trong ngôn ngữ học ông đã đề cập đến các

phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái. Ông cho rằng: “Cùng với sự phong phú của các ý nghĩa

tình thái, các phương tiện dùng để biểu thị ý nghĩa tình thái cũng rất đa dạng” [92; 37]. Ông đã

liệt kê một hệ thống các phương tiện như: ngữ âm (ngữ điệu, trọng âm), từ vựng (động từ tình

thái, phụ từ, trợ từ, thán từ, quán ngữ tình thái), ngữ pháp (đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc câu...).

Đặc biệt qua phân tích cách sử dụng của trợ từ tiếng Việt, tác giả đã cho rằng: “trợ từ tiếng Việt có khả năng tham gia biểu thị một số loại hành vi ngôn ngữ khác nhau gồm cả các hành vi ngôn

ngữ chân thực và các hành vi ngôn ngữ gián tiếp” [92; 133]. Điều này chứng tỏ khả năng to lớn

của trợ từ tiếng Việt trong việc tham gia biểu thị các ý nghĩa hàm ẩn của phát ngôn. Theo chúng

tôi, các hành động ngôn từ (HĐNT) gián tiếp, cách biểu thị ý nghĩa hàm ẩn cũng có thể là

phương tiện biểu thị ý nghĩa TTGN.

Nghiên cứu chuyên sâu về vị từ tình thái là luận án tiến sĩ “Vị từ tình thái tiếng Việt”

của tác giả Huỳnh Văn Thông (1996). Sau này, tác giả còn có bài viết “Mấy nhận xét về vị từ

tình thái và ý nghĩa thể trong tiếng Việt” (2000) đã đề cập đến vấn đề tình thái mà cụ thể là

vị từ tình thái ở nhiều mức độ và góc cạnh khác nhau.

Nguyễn Thị Lương (1996) nghiên cứu chuyên sâu về “Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi

với việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt” (gồm mười tiểu từ tình thái: à, ư,

hả, sao, phỏng, chắc, chăng, chứ, nhỉ nhé). Luận án phó tiến sĩ này của tác giả đã “vận dụng lí

thuyết hành vi ngôn ngữ vào việc nghiên cứu chuyên sâu mười tiểu từ tình thái dứt câu dùng để

hỏi nhằm tìm ra các hành vi ngôn ngữ mà tiểu từ tình thái dứt câu có khả năng biểu thị trong

những ngữ cảnh cụ thể mà chúng xuất hiện, miêu tả đánh giá hiệu lực của các hành vi đó” [48;

2]. Cũng như công trình nêu trên của tác giả Phạm Hùng Việt, trong phần cơ sở lí luận của luận

án, tác giả Nguyễn Thị Lương đã nêu ra những phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái tương tự,

bao gồm: phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Tác giả xếp mười tiểu từ tình thái dứt câu

dùng để hỏi nêu trên thuộc phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái chủ quan.

Đi sâu vào việc miêu tả những phương tiện của tiếng Việt trong việc diễn đạt ý nghĩa tình

thái, Cao Xuân Hạo (1998), trong công trình “Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ

nghĩa” , đã có những kiến giải và nhận xét hết sức sâu sắc về tiền giả định và hàm ý trong

một số vị từ tình thái tiếng Việt. Sau này trong “Tiếng Việt: sơ thảo ngữ pháp chức năng”

(2006) một lần nữa ông trở lại vấn đề tình thái qua việc phân tích rất chi tiết về đề tình thái -

siêu đề và thuyết tình thái – thuyết giả. Ông xem chúng như những phương tiện đặc thù của tiếng

Việt trong việc diễn đạt ý nghĩa tình thái.

Nguyễn Văn Hiệp (2001) nghiên cứu trọng tâm vào các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt.

Trong “Về một khía cạnh phân tích tầm tác động tình thái” , tác giả nghiên cứu về những

vấn đề như: điều kiện tình thái cuối câu xuất hiện, khả năng kết hợp của các tiểu từ tình thái cuối

câu tiếng Việt. Một đóng góp quan trọng của Nguyễn Văn Hiệp là đã miêu tả và phân loại các

tiểu từ tình thái cuối câu một cách rõ ràng. Bài viết “Hướng đến một cách miêu tả và phân loại

các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt” của ông đã góp phần làm nên cái nhìn toàn diện và

sâu sắc hơn về lớp từ này. Và trong công trình chung Lê Đông – Nguyễn Văn Hiệp (2003)

“Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học” , hai tác giả đã khái quát về khái niệm tình thái “góp phần làm rõ một số phương diện chính yếu của phạm trù tính tình thái trong ngôn ngữ cũng

như những vấn đề có liên quan” [17; 63]. Không những thế, năm 2007, trong “Một số phạm trù

tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ” , Nguyễn Văn Hiệp một lần nữa đã “nêu ra một bức tranh

đa góc cạnh về tình thái” [30; 27] khi đi vào phân tích một cách chi tiết và nêu ra một số đối lập

chủ yếu của tình thái trong ngôn ngữ. Đến năm 2008, trong công trình “Cơ sở ngữ nghĩa phân

tích cú pháp” , công trình mà trong đó Nguyễn Văn Hiệp đã tổng hợp lại nhiều vấn đề về

tình thái, tác giả nhận định rõ vai trò của tình thái rằng: “Nếu không quan tâm đến các bình diện

của tình thái, thì chúng ta sẽ không thể hiểu được bản chất của ngôn ngữ, với tư cách là công cụ

con người dùng để phản ảnh thế giới trong hoạt động nhận thức và tương tác xã hội. Không có

tình thái, nội dung được thể hiện trong câu nói chỉ là những mảnh nguyên liệu rời rạc.” [31; 74]

Có thể nói bài viết đề cập trực tiếp nhất đến TTGN là bài viết “Các phương thức biểu thị tình

thái giảm nhẹ trong diễn ngôn đàm phán thương mại quốc tế” của Nguyễn Xuân Thơm

(2002). Tác giả tập trung nghiên cứu về các phương thức biểu thị thái độ đối với người nghe

trong diễn ngôn đàm phán tiếng Anh và tiếng Việt và đã đưa ra một số phương thức sau: sử dụng

yếu tố đánh dấu lịch sự (please – xin), sử dụng nguồn lực ý nghĩa tích cực của từ, sử dụng

nguồn lực các lượng từ hạn định, sử dụng nguồn lực từ tình thái. Bài viết này khá thú vị tuy

nhiên nó chỉ giới hạn trong diễn ngôn đàm phán thương mại.

Tác giả Phạm Thị Ly (2003) nghiên cứu theo hướng đối chiếu về phương tiện diễn đạt ý

nghĩa tình thái, đó là “Đối chiếu một số phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt

và tiếng Anh” . Khi lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ nguồn, tác giả đã đi vào phân tích, tìm hiểu

thức của vị từ như một phương tiện đặc thù diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Anh để đối chiếu

với những phương tiện diễn đạt ý nghĩa tương ứng của tiếng Việt. Và khi lấy tiếng Việt làm

ngôn ngữ nguồn, tác giả chọn tiểu từ tình thái như một phương tiện quan trọng diễn đạt ý nghĩa

tình thái của tiếng Việt mà tiếng Anh không có. Như vậy trọng tâm của luận án là đi vào nghiên

cứu đối chiếu thức vị từ và tiểu từ tình thái mà thôi. Cũng trong luận án này, tác giả cho rằng

“Tiếng Việt còn có một phương tiện hết sức đặc thù để diễn đạt ý nghĩa tình thái, đó là những

yếu tố tình thái được xử lý như một phần đề hoặc như một phần thuyết của câu” [51; 77]. Đây

chính là cái mà Cao Xuân Hạo gọi là siêu đề và thuyết giả như đã nêu trên.

Công trình chung “Thành phần câu tiếng Việt” của Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn

Văn Hiệp (2004) đã dành hẳn một chương để trình bày về một thành phần phụ của câu: tình thái

ngữ. Hai tác giả không chỉ trình bày khái niệm về tình thái ngữ mà còn phân biệt tình thái ngữ

với các thành tố khác trong câu, phân loại tình thái thái ngữ và nêu ra điều kiện sử dụng của

chúng trong câu. Cũng nghiên cứu theo hướng đối chiếu như tác giả Phạm Thị Ly, Nguyễn Thị Ngọc Hân

(2005) đã có công trình nghiên cứu “Tiểu từ tình thái cuối câu trong hội thoại tiếng Việt (so

sánh với tiếng Nhật) và việc giảng dạy nó cho người Nhật” . Hai công trình của hai tác giả

này có giá trị ứng dụng cao vào việc dạy tiếng cho người nước ngoài. Luận án đã khảo sát con

đường chuyển nghĩa của các tiểu từ tình thái cuối câu, sự gắn kết chặt chẽ của chúng với phát

ngôn, tình trạng niềm tin của người nói được thể hiện qua sự có mặt của chúng trong phát ngôn.

Tác giả Ngô Thị Minh (2005) với bài viết “Bàn thêm một số phương tiện biểu hiện ý nghĩa

tình thái trong ngôn ngữ hội thoại” , đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, đã cho rằng:

“Ngôn ngữ hội thoại mang nhiều yếu tố tình thái và phương tiện biểu hiện loại ý nghĩa này cũng

khá đa dạng” [54;1]. Ngoài các phương tiện về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp như đã nêu ở trên, tác

giả đã bổ sung thêm ba phương tiện: sử dụng tiếng chửi, lời nói tục; sử dụng các thành ngữ quán

ngữ; sử dụng kiểu nói lửng.

Ngoài ra, còn có tác giả Võ Đại Quang (2008) bàn về “Tình thái trong câu – phát ngôn: một

số vấn đề lí luận cơ bản” . Tác giả giúp người đọc nhận thấy “mối liên hệ giữa tình thái và

các thành tố ngữ nghĩa khác trong phát ngôn và về những vấn đề, những yếu tố cần yếu trong

nghiên cứu về tình thái của đơn vị “câu” (sentence) với tư cách là những phát ngôn (utterances)

trong giao tiếp liên nhân” [72; 1]. Trong phần viết về các phương thức chuyển tải nghĩa tình thái

trong ngôn ngữ, tác giả cho rằng tình thái có thể được chuyển tải bằng phương tiện ngôn ngữ

thông qua con đường từ vựng hóa, ngữ pháp hóa và ngôn điệu hóa. Như vậy, quan điểm của tác

giả về các phương tiện biểu thị tình thái cũng giống như các tác giả khác đã nêu ở trên tuy nhiên

tác giả đã khẳng định rõ vai trò của các phương tiện biểu thị tình thái bằng lời nhận xét: “Việc

học và sử dụng chuẩn xác các phương tiện tình thái sẽ giúp ích rất nhiều trong việc duy trì và cải

thiện quan hệ liên nhân trong các hoàn cảnh giao tiếp cụ thể bằng ngôn từ.” [72; 8]

Có thể nói việc nghiên cứu về tình thái, vấn đề nghĩa tình thái trong tiếng Việt đã thu hút

được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Từ bước đầu tiên chỉ là những quan sát để phân

tích một số nét thái độ của người nói đối với hiện thực quan sát được, các nhà Việt ngữ học đã

không ngừng tiến vào những lĩnh vực mới mẻ như logic học, logic tình thái, ngữ dụng học hoặc

theo quan điểm của ngữ pháp chức năng để phân tích, đánh giá về những nội dung tình thái thể

hiện trong phát ngôn tiếng Việt. Điều này cho chúng ta thấy sự quan tâm của các nhà nghiên cứu

về hoạt động và tầm tác động của lời nói trong giao tiếp.

Những công trình nghiên cứu mà chúng tôi chọn lọc và nêu ra ở trên sẽ là những kiến thức

căn bản và hữu ích giúp chúng tôi xử lí đề tài của mình. Mặt khác, nó cũng cho chúng tôi nhận

thấy vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về TTGN, về các phương tiện biểu thị TTGN mà chúng tôi

đã chọn thực sự là một vấn đề mới, hấp dẫn và đáng được quan tâm.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn là nghiên cứu về TTGN mà trọng tâm là khảo sát và xác lập một hệ

thống các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt. Để đạt được mục đích này,

chúng tôi tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:

3.1 Tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu Việt ngữ học, luận văn đưa ra khái niệm về

TTGN, nội dung của TTGN, vai trò của tình thái – TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt.

3.2 Thu thập và khảo sát ngữ liệu, lọc ra các dẫn chứng có biểu thị TTGN.

3.3 Từ nguồn ngữ liệu, luận văn tổng hợp và lập ra một danh sách các phương tiện biểu thị

TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt, xác định tiêu chí nhận diện (nếu có) cho mỗi phương tiện và

xếp các phương tiện vào từng nhóm.

3.4 Miêu tả, phân tích những đặc điểm cơ bản của các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn

ngôn tiếng Việt.

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

4.1 Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau

đây:

4.1.1 Phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch: Dựa trên nền tảng lí thuyết tiếp

thu được từ các nhà ngôn ngữ học đi trước, phần cơ sở lí luận mà chúng tôi trình bày trong

chương 1 đều là những tổng kết hoặc những điều được học hỏi từ những công trình nghiên cứu

có liên quan. Nắm vững phần lí thuyết, chúng tôi lấy đó làm cơ sở để tiến hành công việc khảo

sát, phân tích và xác lập hệ thống các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt.

4.1.2 Phương pháp thống kê: Khi làm việc với một nguồn ngữ liệu từ ca dao đến các tác

phẩm truyện ngắn của nhiều tác giả khác nhau như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam

Cao, Nguyễn Thị Thu Huệ …, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để định lượng ngữ liệu

và từ đó xác lập từng phương tiện biểu thị TTGN cụ thể. Tư liệu chọn lọc không chỉ được chúng

tôi sử dụng làm cơ sở cho việc đánh giá, xác lập và phân loại nêu trên mà còn được sử dụng vào

việc nêu ra ví dụ trong quá trình miêu tả, phân tích từng phương tiện.

4.1.3 Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu khi trình bày về

từng phương tiện biểu thị TTGN đã được xác lập ở trên. Các nhận định đưa ra chủ yếu dựa vào

kết quả phân tích, miêu tả ngữ liệu.

4.1.4 Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – ngữ dụng: Với tư cách là một quá trình giao

tiếp hay sự kiện giao tiếp, diễn ngôn bao hàm cả các yếu tố ngoài ngôn ngữ như ngữ cảnh tình

huống, yếu tố dụng học và các tác động của các chiến lược văn hóa ở người sử dụng ngôn ngữ.

Do đó khi nghiên cứu TTGN trong diễn ngôn, chúng tôi luôn ý thức về sự chi phối các yếu tố

này, đặc biệt là yếu tố ngữ cảnh tình huống. Thông qua phương pháp phân tích ngữ nghĩa – ngữ

dụng, việc xác định về TTGN cũng như việc miêu tả, phân tích các cứ liệu luôn được chúng tôi

xem xét một cách toàn diện, đặt trong một ngữ cảnh cụ thể.

4.2 Nguồn ngữ liệu

Để tạo sự phong phú về ngữ liệu cũng như để có được độ tin cậy trong quá trình thống kê,

phân tích và nhận xét, chúng tôi mở rộng nguồn ngữ liệu trích dẫn từ ca dao đến những tác phẩm

của những nhà văn nổi tiếng trước đây như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam

Cao…cho đến những sáng tác được nhiều người biết đến của những nhà văn mới sau này trong

các tuyển tập văn mới. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chú ý đến nguồn ngữ liệu trong giao tiếp

hàng ngày.

5. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn được phân thành hai chương:

Chương 1: Luận văn trình bày những cơ sở lí thuyết cơ bản liên quan đến đề tài như: về diễn

ngôn; về tính tình thái và TTGN trong ngôn ngữ; một số vấn đề khác về TTGN trong ngôn ngữ,

trong đó có đề cập về lịch sự và lịch sự ngôn ngữ, vai trò của TTGN trong diễn ngôn, trong giao

tiếp.

Chương 2: Qua khảo sát, luận văn xác lập, phân loại và miêu tả các phương tiện biểu thị TTGN

trong diễn ngôn tiếng Việt.

Phần bên dưới chỉ hiển thị một số trang ngẫu nhiên trong tài liệu. Bạn tải về để xem được bản đầy đủ

  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
  • Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt

GỢI Ý

Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem

Quán Ngữ tình thái tiếng Việt

Upload: zjn_zjn_01

📎 Số trang: 94
👁 Lượt xem: 1429
Lượt tải: 18

Đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của hành vi chào ...

Upload: adctco

📎 Số trang: 24
👁 Lượt xem: 3196
Lượt tải: 24

Ngôn ngữ chat tiếng Việt và tiếng Anh

Upload: vuanhphuc

📎 Số trang: 141
👁 Lượt xem: 672
Lượt tải: 21

Đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của các từ ngữ ...

Upload: songthan2007

📎 Số trang: 147
👁 Lượt xem: 1662
Lượt tải: 23

Các phong cách chức năng ngôn ngữ Tiếng Việt

Upload: dtk_vir

📎 Số trang: 28
👁 Lượt xem: 1447
Lượt tải: 17

Các phong cách chức năng ngôn ngữ Tiếng Việt

Upload: thubaynhome

📎 Số trang: 28
👁 Lượt xem: 782
Lượt tải: 16

Từ vựng tiếng Việt trong Việt Nam Tự Điển

Upload: thenhan83vnn

📎 Số trang: 109
👁 Lượt xem: 570
Lượt tải: 17

Từ vựng tiếng Việt trong Việt Nam Tự Điển

Upload: lockhomes

📎 Số trang: 109
👁 Lượt xem: 674
Lượt tải: 16

Ngôn ngữ tiếng Trung Sử động pháp và Ý động ...

Upload: white_hat_83

📎 Số trang: 26
👁 Lượt xem: 665
Lượt tải: 17

Ngôn ngữ tiếng Trung Sử động pháp và Ý động ...

Upload: lylyxinh2010

📎 Số trang: 24
👁 Lượt xem: 582
Lượt tải: 16

Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng ...

Upload: kthoa68

📎 Số trang: 98
👁 Lượt xem: 1201
Lượt tải: 18

Từ ghi âm ghi thái trong tiếng Nhật

Upload: buihongthang

📎 Số trang: 65
👁 Lượt xem: 790
Lượt tải: 16

QUAN TÂM

Những tài liệu bạn đã xem

Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt

Upload: rainbowsix

📎 Số trang: 146
👁 Lượt xem: 631
Lượt tải: 17

CHUYÊN MỤC

Văn hóa nghệ thuật Ngôn ngữ học
Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt MS: LVNNH031 SỐ TRANG: 146 TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC NĂM: 2010 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Có thể nói vấn đề tình thái trong ngôn ngữ không phải là mới. Từ triết học Hy Lạp cổ đại, khái niệm tình thái của logic học được hình pdf Đăng bởi
5 stars - 297498 reviews
Thông tin tài liệu 146 trang Đăng bởi: rainbowsix - 06/05/2025 Ngôn ngữ: Việt nam, English
5 stars - "Tài liệu tốt" by , Written on 06/05/2025 Tôi thấy tài liệu này rất chất lượng, đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Chia sẻ thông tin với tôi nếu bạn quan tâm đến tài liệu: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt