Tìm tài liệu

Ngu nghia ngu dung cua vi tu ngon hanh tieng Viet

Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt

Upload bởi: kthoa68

Mã tài liệu: 297468

Số trang: 98

Định dạng: pdf

Dung lượng file: 708 Kb

Chuyên mục: Ngôn ngữ học

Info

MS: LVNNH020

SỐ TRANG: 98

TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC

NĂM: 2008

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong ngữ pháp tiếng Việt, từ trước đến nay, vấn đề phân biệt các kiểu

câu vẫn đang là vấn đề chưa được thống nhất giữa các nhà Việt ngữ học. Việc

phân loại các kiểu câu chủ yếu theo hai cách.

– Có muốn ăn bánh không?

– Có muốn ăn roi không?

Một câu như Ối giời ơi sao mà đẹp thế! hoàn toàn có thể là một câu cảm

thán nhưng cũng có thể là một câu mỉa mai. Câu Muốn chết hả? là câu để

quát mắng còn câu Sao còn đứng đực ra đấy? là câu mệnh lệnh nhưng ta thấy

cả hai câu vừa nêu đều có hình thức của câu nghi vấn.

Mục đích nói năng của phát ngôn chỉ được khám phá một cách có hệ

thống kể từ khi nhà triết học người Anh J. L. Austin (1911-1960) viết cuốn

How to do things with words? đặt ra vấn đề câu ngôn hành, xem xét câu nói

như là hành dộng. J. L. Austin gọi ý định của người nói được thực hiện bằng

lời là hành động ngôn trung. Đó là các hành động như: ra lệnh, yêu cầu, xin

lỗi, cảm ơn… Như vậy, gắn liền với vấn đề câu ngôn hành là vị từ ngôn hành.

2. Điểm qua các công trình liên quan đến đề tài

2.1. Các nhà nghiên cứu nước ngoài

2.1.1. J. L. Austin

Có thể nói rằng nhà triết học người Anh J. L. Austin được xem là người

đặt nền móng cho việc phát hiện nghĩa tương tác xã hội, hay nghĩa liên nhân

của câu nói, vào năm 1955. Ông trình bày 12 chuyên đề ở trường Đại học

Tổng hợp Harvard (Mỹ). Những chuyên đề này được tập hợp lại xuất bản

thành sách với nhan đề How to do things with words (hành động như thế nào

bằng lời nói), xuất bản năm 1962, hai năm sau ngày tác giả qua đời. Cuốn

sách này năm 1970 được dịch sang tiếng Pháp với nhan đề Quand dire, c’est

faire (Khi nói tức là làm).

J. L. Austin nhận thấy rằng, cho đến thời gian đó, các nhà logic và các nhà

ngôn ngữ chỉ quan tâm đến những câu khảo nghiệm (còn gọi là khẳng định,

trần thuyết, xác tín, miêu tả), xem chúng là đối tượng nghiên cứu cơ bản. Đây

là những câu về mặt ngữ nghĩa đều có thể được đánh giá theo tiêu chuẩn chân

ngụy còn những phát ngôn khác, mặc dù rất giống với những phát ngôn khảo

nghiệm về hình thức nhưng không thể đánh giá nội dung theo tiêu chuẩn chân

ngụy. Chẳng hạn những câu như:

Cannibalism is wrong. (Tục ăn thịt người là sai.)

Hoặc:

Monet is a better painter than Manet. (Họa sĩ Monet giỏi hơn họa sĩ

Manet).

tùy theo phong tục và thẩm mỹ riêng của từng người mà được coi là đúng hay

sai, và nói chung, là không thể xác định được là đúng hay sai.

J. L. Austin phê phán cái gọi là Ngụy thuyết miêu tả, tức khuynh hướng

nghiên cứu chỉ chú trọng đến nghĩa miêu tả của câu, là loại nghĩa có thể kiểm

nghiệm theo chân ngụy khi đối chiếu với thực tế. Nhấn mạnh đến chiều kích

liên nhân, hay chiều kích tương tác mang bản chất xã hội trong ý nghĩa của

câu nói, J.L. Austin đề nghị chia câu nói thành hai loại: câu tường thuật

(constative) và câu ngôn hành. Câu tường thuật là câu nêu nhận định (có thể

đánh giá theo tiêu chuẩn chân ngụy), còn câu ngôn hành là phát ngôn mà khi

nói ra chúng, người nói đã đồng thời làm một điều gì đó hơn là nêu một nhận

định về một điều gì đó. Thử xem hai câu: Tao hứa từ nay sẽ không hút thuốc

lá nữa và Mời cụ lớn xơi nước ạ, chúng ta thấy người nói chẳng hề nêu ra một

nhận định nào hết mà chỉ đơn giản là thực hiện các hành động “hứa” và

“mời”. J. L. Austin cho rằng những câu này không phải là những câu giả-

khẳng định, cũng không phải là những câu vô nghĩa. Chúng được phát ngôn

ra không nhằm trình bày một kết quả khảo nghiệm, một sự miêu tả về các sự

vật, sự kiện, chúng không phải là những báo cáo về hiện thực mà nhằm làm

một việc gì đó, chẳng hạn việc hỏi, việc mời, việc đánh cuộc…

Như vậy ta thấy rằng nhờ phân biệt được phát ngôn tường thuật miêu tả và

phát ngôn ngôn hành, J. L. Austin đã phát hiện ra bản chất hành động của

ngôn ngữ.

Tuy nhiên vốn không phải là một nhà ngôn ngữ học cho nên sau đó J. L.

Austin đi đến từ bỏ sự phân biệt về hai loại câu này (câu tường thuật miêu tả

đối lập với câu ngôn hành) để khẳng định rằng, tất cả các câu đều là ngôn

hành sau khi phân biệt các biểu thức ngôn hành tường minh và các biểu thức

ngôn hành hàm ẩn. Ông cho rằng một câu ngôn hành không nhất thiết phải sử

dụng một vị từ ngôn hành. Ông viết: “Tuyệt nhiên không nhất thiết một câu

ngôn hành phải được thực hiện trong một hình thái được coi là bình thường

như vậy… nói “ Đóng cửa lại đi!” rõ ràng là cũng có tính ngôn hành, cũng là

thực hiện một hành động đúng như khi ta nói “Tôi ra lệnh cho anh đóng của

lại”.

J. L. Austin phân loại ra năm phạm trù hành động ngôn từ:

1. Phán xử (Verditives, verditifs) Đây là những hành động đưa ra lời phán

xét (verdicts) về một sự kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cớ hiển

nhiên hoặc dựa vào lý lẽ vững chắc như: xử trắng án, xem là, tính toán miêu

tả, phân tích, đánh giá, phân loại, cho là, nêu đặc điểm…

2. Hành xử (Exercitives, exercitifs). Đây là những hành động đưa ra

những quyết định thuận lợi hay chống lại một chuỗi hành động nào đó: ra

lệnh, chỉ huy, biện hộ cho, khẩn cầu, đặt hàng, giới thiệu, van xin, khuyến cáo

và các hành vi ngôn ngữ như: bổ nhiệm, đặt tên, tuyên bố khai mạc, bế mạc,

cảnh cáo, tuyên ngôn.

3. Cam kết (Commissives, commissifs). Những hành động này ràng buộc

người nói vào một chuỗi những hành động nhất định: hứa hẹn, bày tỏ lòng

mong muốn, giao ước bảo đảm, thề nguyền, thông qua các quy ước, tham gia

một phe nhóm.

4. Trình bày (Expositives, expositifs). Những hành động này được dùng

để trình bày các quan niệm, dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ như

khẳng định, phủ định, chối, trả lời, phản bác, nhượng bộ, dẫn ví dụ, chuyển

dạng lời, báo cáo các ý kiến...

5. Ứng xử (Behabitives, comportementaux). Đây là những hành vi phản

ứng với cách xử sự của người khác, đối với các sự kiện có liên quan, chúng

cũng là cách biểu hiện thái độ đối với hành động hay số phận của người khác:

xin lỗi, cảm ơn, khen ngợi, chào mừng, phê phán, chia buồn, ban phước,

nguyền rủa, nâng cốc, chống lại, thách thức, nghi ngờ…

Bảng phân loại của J. L. Austin được xem về cơ bản là phân loại từ vựng

các động từ ngôn hành tiếng Anh.

2.1.2. J. R. Searle

Cũng như J. L. Austin và các tác giả khác, J. R. Searle tiến hành phân loại

các động từ ngôn hành. Ông còn chỉ ra những hạn chế trong bảng phân loại

của J. L. Austin vì ông cho rằng J. L. Austin không định ra các tiêu chí phân

loại, do đó kết quả phân loại có khi giẫm đạp lên nhau. J. R. Searle cho rằng

trước hết là phải phân loại các hành động ngôn từ chứ không phải phân loại

các động từ gọi tên chúng và nếu xác lập được một hệ tiêu chí thích hợp với

các hành động ngôn từ thì có thể giải tỏa được tình trạng giẫm đạp lên nhau

của các phạm trù. (Xem Đỗ Hữu Châu 2005)

J. L. Searle phân lập được năm loại hành động ngôn từ. Đó là các hành

động:

1. Tái hiện (Representatives). Yếu điểm ngôn trung (illocutionary point) là

miêu tả lại một sự tình đang được nói đến. Hướng khớp ghép là lời-hiện thực,

trạng thái tâm lý là niềm tin vào điều mình xác tín, nội dung mệnh đề là một

mệnh đề. Các mệnh đề này có thể đánh giá theo tiêu chuẩn chân ngụy. Cần

chú ý có một số động từ có khả năng biểu thị hành động ngôn từ mà nội dung

mệnh đề có thể đánh giá theo tiêu chuẩn chân ngụy nhưng không quy về các

xác tín bình thường. Ví dụ than thở, khoe cũng nói lên các nội dung mệnh đề

nhưng lực ngôn trung của chúng khác với lực của phát ngôn miêu tả, khẳng

định, tường thuật thông thường ở chỗ người phát ngôn thực hiện chúng là vì

lợi ích của mình. Kết luận, suy diễn cũng là xác tín nhưng ngoài yếu điểm

ngôn trung chung với tái hiện chúng còn có thêm các chỉ dẫn về mối quan hệ

giữa nội dung tái hiện đó với phần còn lại của diễn ngôn hay của ngữ huống.

2. Cầu khiến (Directive): (ra lệnh, yêu cầu, hỏi, cho phép). Yếu điểm ngôn

trung của loại này là ở chỗ người nói dùng ngôn từ để khiến người nghe làm

một việc gì. Nội dung mệnh đề chính là cái hành động đó. Hỏi cũng là một

hành động cầu khiến.

3. Hứa hẹn (Commissives) (hứa hẹn, tặng, biếu). J. R. Searle chấp nhận

cách định nghĩa của J. L. Austin: “người nói cam kết sẽ thực hiện một hành

động nào đó”. Đó là nội dung mệnh đề phát ngôn. Hứa hẹn và cầu khiến đều

có một hướng chung là thích nghi hiện thực với lời lẽ, nhưng ở cầu khiến thì

do người nghe làm, còn ở hứa hẹn là do người nói làm.

4. Bày tỏ (Expressives): Yếu điểm ngôn trung là bày tỏ một trạng thái tâm

lý đối với một sự tình được chỉ rõ trong nội dung mệnh đề, như “cảm ơn”,

“xin lỗi”, “lấy làm tiếc”. Nội dung mệnh đề là một hành động hay một tính

chất nào đó của người nói hay người nghe. Ở đây không có sự thích nghi giữa

lời nói và hiện thực. Chẳng qua sự tình được giả định là thực hữu.

5. Tuyên bố (Declarations) (tuyên bố, buộc tội). Yếu điểm ngôn trung của

loại này là hành động ngôn từ, nếu được thực hiện đúng quy cách và nếu

người nói có đủ tư cách đưa đến sự tương ứng giữa nội dung mệnh đề và hiện

thực. Nội dung mệnh đề là một mệnh đề. Đây là những lời ngôn hành.

2.1.3. Anna Wierbicka

Anna Wierbicka trong tác phẩm English Speech Act Verbs (1987) dùng

ngôn ngữ ngữ nghĩa để giải nghĩa 270 động từ ngôn hành trong tiếng Anh,

270 động từ này được quy về 37 nhóm sau đây:

1. Nhóm ra lệnh (Order)

2. Nhóm cầu xin (Ask 1)

3. Nhóm hỏi (Ask 2)

4. Nhóm mời gọi (Call)

5. Nhóm cấm (Forbid)

6. Nhóm cho phép (Permit)

7. Nhóm biện luận (Argue)

8. Nhóm trách mắng (Reprimand)

9. Nhóm giễu (Mock)

10. Nhóm phê phán (Blame)

11. Nhóm buộc tội (Accuse)

12. Nhóm công kích (Attack)

13. Nhóm cảnh báo (Warn)

14. Nhóm khuyến cáo (Advise)

15. Nhóm cho tặng (Offer)

16. Nhóm khen ngợi (Praise)

17. Nhóm hứa hẹn (Promise)

18. Nhóm cám ơn (Thank)

19. Nhóm tha thứ (Forgive)

20. Nhóm than phiền (Complain)

21. Nhóm cảm thán (Exclaim)

22. Nhóm đoán định (Guess)

23. Nhóm gợi ý (Hint)

24. Nhóm kết luận (Conclude)

25. Nhóm kể (Tell)

26. Nhóm thông tin (Inform)

27. Nhóm tóm tắt (Sum up)

28. Nhóm chấp nhận (Admit)

29. Nhóm xác tín (Assert)

30. Nhóm củng cố (Confirm)

31. Nhóm nhấn mạnh (Stress)

32. Nhóm tuyên bố (Declare)

33. Nhóm rửa tội (Baptize)

34. Nhóm ghi chú (Remark)

35. Nhóm trả lời (Answer)

36. Nhóm thảo luận (Discuss)

37. Nhóm trò chuyện (Talk)

2.2. Các nhà nghiên cứu trong nước

Đến nay đã có nhiều nhà Việt ngữ học có những công trình nghiên cứu

công phu về câu ngôn hành như Cao Xuân Hạo, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện

Giáp, Nguyễn Đức Dân, Diệp Quang Ban, Nguyễn Văn Hiệp,... Ngoài ra còn

có các luận văn, luận án của các sinh viên, nghiên cứu sinh cũng tập trung

nghiên cứu về câu ngôn hành như Nguyễn Văn Lập, Cao Thị Quỳnh Loan,

Võ Thị Ngọc Duyên…

Đỗ Hữu Châu nghiên cứu rất kĩ lưỡng về phát ngôn ngôn hành. Ông công

nhận sự tồn tại của hai loại câu ngôn hành là câu ngôn hành tường minh và

câu ngôn hành hàm ẩn theo tư tưởng sau này của J. L. Austin. Đỗ Hữu Châu

cho rằng câu ngôn hành tường minh là câu có chứa biểu thức ngữ vi

1

, trong

đó có lõi là động từ2

ngữ vi. Theo ông động từ ngữ vi là những động từ có thể

thực hiện chức năng ngữ vi trong phát ngôn. Xét theo khả năng có thể hay

không có thể được dùng với chức năng ngữ vi trong các biểu thức ngữ vi, ông

chia các động từ nói năng tiếng Việt ra làm ba loại:

Thứ nhất là động từ miêu tả hành vi ở lời

3

. Ví dụ: khoe, chế giễu…

Thứ hai là động từ ngữ vi chỉ dùng trong chức năng ngữ vi. Ví dụ: phỉ

thui, đa tạ…

Thứ ba là động từ vừa dùng trong chức năng ngữ vi vừa dùng trong chức

năng miêu tả. Ví dụ: hứa, hỏi…

Cũng dựa trên cơ sở nghiên cứu lí thuyết hành động ngôn từ của J. L.

Austin, Diệp Quang Ban chia vấn đề câu ngôn hành tiếng Việt ra làm hai loại.

Đó là câu sử dụng hành động nói trực tiếp và câu sử dụng hành động nói gián

tiếp. Câu sử dụng hành động nói trực tiếp lại bao gồm hai kiểu câu là câu

1

Tức performative.

Cao Xuân Hạo dịch là ngôn hành.

2

Cao Xuân Hạo gọi là vị từ.

3

Tức illocution. Cao Xuân Hạo dịch là hành động ngôn trung.

ngôn hành tường minh và câu ngôn hành hàm ẩn. Còn câu sử dụng hành động

nói gián tiếp là trường hợp câu có đặc điểm cấu tạo về thức có thể được sử

dụng không đúng với chức năng (mục đích nói) vốn có của nó, như dùng câu

nghi vấn để nhận định một sự việc nào đó, dùng câu trình bày để hỏi…, chẳng

hạn như Thứ ấy kiếm ở đâu cho ra được, Sao mà ồn thế…

Cao Xuân Hạo cho rằng: “Câu ngôn hành là một loại câu trần thuật tự biểu

thị”, nó biểu thị chính cái hành động mà động từ làm hạt nhân của câu đó gọi

tên, “được thực hiện trong khi nói nó ra và chính bằng cách nói nó ra”. Kiểu

câu này sử dụng một loại động từ chỉ hành động mà J. L. Austin gọi là vị từ

ngôn hành. Cao Xuân Hạo không thừa nhận dạng phát ngôn ngôn hành hàm

ẩn. Ông phân tích rất kĩ: “Nếu ta thừa nhận sự tồn tại của phát ngôn ngôn

hành hàm ẩn thì tất cả các phát ngôn đều có tính ngôn hành”. Vì phát ngôn

nào cũng có thể hiểu là được mở đầu bằng Tôi xin nói rằng và do đó “việc

phân biệt ra loại câu ngôn hành trở thành hoàn toàn vô nghĩa lí”. Ông cũng

đưa ra các “điều kiện nhất định khá ngặt nghèo” để một vị từ gọi là vị từ ngôn

hành có được tính ngôn hành của nó: 1. chủ ngữ là ngôi thứ nhất (chủ ngữ có

thể ẩn), 2. vị từ có thể dùng ở thì hiện tại, 3. bổ ngữ tiếp nhận hành động phải

là ngôi thứ hai.

Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam không thực hiện việc phân loại các loại

hành động ngôn hành. Hoặc có chăng chỉ là phân biệt vị từ ngôn hành có

biểu thức ngôn hành (khuyên, cam đoan,…) và vị từ ngôn hành không cần có

biểu thức ngôn hành (cảm ơn, chào, xin lỗi) mà thôi. Mặc dù về cơ bản các

nhà Việt ngữ học có cùng quan điểm khi công nhận dạng thức đặc biệt của vị

từ ngôn hành và giá trị ngôn trung của nó nhưng vấn đề nhận dạng vị từ ngôn

hành và vấn đề ngữ nghĩa, ngữ dụng của nó thì có những quan điểm khác

nhau.

Ở đây, luận văn theo quan điểm của Cao Xuân Hạo.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Chẳng hạn, trong các ví dụ sau đây:

– Cô Út về quê, mình gởi lời hỏi thăm hai bác ở quê nhé!

– Tao ra điều kiện cho mày là mày sẽ cưới vợ, nếu không tao sẽ từ

mày, còn gia tài tao thề là sẽ bán và tiêu xài hết, tao sẽ không để lại cho mày

một xu nhỏ! (Trích Cô tiểu thư nông dân – A. Puskin – Nguyễn Duy Bình

dịch) thì gởi lời hỏi thăm, ra điều kiện rõ ràng là biểu thức ngôn hành. Nếu

viện cớ đây là ngữ vị từ, chứ không phải là vị từ, để gạt ra khỏi đối tượng

nghiên cứu, thì sự “chặt chẽ” này chỉ làm nghèo đi kết quả nghiên cứu mà

thôi.

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

4.1. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thống kê ngôn ngữ

Luận văn thống kê các vị từ ngôn hành trong tiếng Việt, kể cả một số ít vị

từ ngày nay không còn thấy xuất hiện trong giao tiếp hằng ngày nữa như: bái

biệt, bá cáo…

Phương pháp miêu tả

Luận văn tập trung phân tích ngữ liệu để rút ra những nhận xét, kết luận

đến các vấn đề có liên quan đến câu ngôn hành và vị từ ngôn hành.

Phương pháp phân tích

Dựa trên nguồn ngữ liệu thu thập được và khảo sát từ thực tế luận văn

phân tích các đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ dụng của từng vị từ ngôn hành một

để làm rõ được tính chất ngôn hành của nó.

4.2. Nguồn ngữ liệu

Về nguồn ngữ liệu, luận văn chủ yếu dựa vào ba cuốn từ điển, đó là Từ

điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, Từ điển tiếng Việt do Nguyễn Kim

Thản chủ biên, và Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên.

Các phát ngôn trong giao tiếp hằng ngày cũng như trong các tác phẩm văn

học, tục ngữ, ca dao…được sử dụng làm dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề

được khảo sát.

5. Bố cục của luận văn

Trên cơ sở xác định mục đích và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu, ngoài

phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm hai chương.

Chương 1 dành để trình bày về lý thuyết hành động ngôn từ và khái niệm

câu ngôn hành. Từ đó, luận văn đặt vấn đề nhận diện vị từ ngôn hành, những

điều kiện để một phát ngôn trở thành phát ngôn ngôn hành và những vị từ

trong phát ngôn đó trở thành vị từ ngôn hành và một số vấn đề chung về ngữ

nghĩa và ngữ dụng của vị từ ngôn hành.

Chương 2 là từ điển vị từ ngôn hành tiếng Việt, gồm 189 mục từ. Đây là

phần trọng tâm của luận văn cho nên nó cũng chiếm dung lượng lớn nhất. Ở

chương này, luận văn tiến hành khảo sát từng vị từ ngôn hành một để tìm hiểu

giá trị ngữ nghĩa của chúng thông qua những ví dụ cụ thể.

Phần Kết luận tổng kết nội dung của luận văn, nêu những hạn chế, khó

khăn mà luận văn chưa đạt được. Cuối cùng là danh mục 40 tài liệu tham

khảo.

Phần bên dưới chỉ hiển thị một số trang ngẫu nhiên trong tài liệu. Bạn tải về để xem được bản đầy đủ

  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
  • Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt

GỢI Ý

Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem

Đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của hành vi chào ...

Upload: adctco

📎 Số trang: 24
👁 Lượt xem: 3196
Lượt tải: 24

Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong ...

Upload: chungkhoan168

📎 Số trang: 199
👁 Lượt xem: 1665
Lượt tải: 24

Cấu trúc ngữ nghĩa ngữ dụng của phương thức ...

Upload: mrbin162

📎 Số trang: 135
👁 Lượt xem: 596
Lượt tải: 17

Đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của các từ ngữ ...

Upload: songthan2007

📎 Số trang: 147
👁 Lượt xem: 1662
Lượt tải: 23

Ngôn ngữ chat tiếng Việt và tiếng Anh

Upload: vuanhphuc

📎 Số trang: 141
👁 Lượt xem: 672
Lượt tải: 21

Cấu trúc ngữ nghĩa ngữ dụng của phép nối ...

Upload: linhplc

📎 Số trang: 264
👁 Lượt xem: 1180
Lượt tải: 20

Các phong cách chức năng ngôn ngữ Tiếng Việt

Upload: dtk_vir

📎 Số trang: 28
👁 Lượt xem: 1447
Lượt tải: 17

Các phong cách chức năng ngôn ngữ Tiếng Việt

Upload: thubaynhome

📎 Số trang: 28
👁 Lượt xem: 782
Lượt tải: 16

Tìm hiểu một số kiểu câu liên quan đến tồn ...

Upload: kimhong1512

📎 Số trang: 60
👁 Lượt xem: 650
Lượt tải: 17

Tìm hiểu một số kiểu câu liên quan đến tồn ...

Upload: sanhangnong

📎 Số trang: 60
👁 Lượt xem: 560
Lượt tải: 16

Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong ...

Upload: lovely9551

📎 Số trang: 211
👁 Lượt xem: 4412
Lượt tải: 18

Việc tự học ngữ pháp Tiếng Nhật của sinh ...

Upload: sdkjfkdsj92

📎 Số trang: 17
👁 Lượt xem: 478
Lượt tải: 16

QUAN TÂM

Những tài liệu bạn đã xem

Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng ...

Upload: kthoa68

📎 Số trang: 98
👁 Lượt xem: 1202
Lượt tải: 18

CHUYÊN MỤC

Văn hóa nghệ thuật Ngôn ngữ học
Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt MS: LVNNH020 SỐ TRANG: 98 TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC NĂM: 2008 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong ngữ pháp tiếng Việt, từ trước đến nay, vấn đề phân biệt các kiểu câu vẫn đang là vấn đề chưa được thống nhất giữa các nhà Việt ngữ pdf Đăng bởi
5 stars - 297468 reviews
Thông tin tài liệu 98 trang Đăng bởi: kthoa68 - 02/01/2025 Ngôn ngữ: Việt nam, English
5 stars - "Tài liệu tốt" by , Written on 02/01/2025 Tôi thấy tài liệu này rất chất lượng, đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Chia sẻ thông tin với tôi nếu bạn quan tâm đến tài liệu: Ngữ nghĩa ngữ dựng của vị từ ngôn hành tiếng Việt