Mã tài liệu: 258576
Số trang: 258
Định dạng: rar
Dung lượng file: 95,955 Kb
Chuyên mục: Tổng hợp
MỤC LỤC
DẪN NHẬP 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu .12
4. Đóng góp của luận án 14
5. Phương pháp nghiên cứu 15
6. Cấu trúc của luận án .15
CHƯƠNG 1: TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI - LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ THỂ LOẠI 17
1.1. Truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại - những vấn đề lí thuyết 17
1.1.1. Thuật ngữ truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam 17
1.1.2. Các quan niệm về truyện đồng thoại ở Việt Nam 19
1.1.3. Những độ chênh về thuật ngữ .23
1.1.4. Đặc trưng thể loại truyện đồng thoại .26
1.1.5. Truyện đồng thoại với một số thể loại khác 35
1.2. Truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại - khái quát về lịch sử 41
1.2.1. Những nền tảng truyện kể truyền thống 41
1.2.2. Quá trình phát triển của truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại 48
1.2.3. Thành tựu phát triển của truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại .56
CHƯƠNG 2: TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI -NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG .64
2.1. Truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại - những cảm hứng chính 64
2.1.1. Cảm hứng về thế giới tự nhiên .64
2.1.2. Cảm hứng về thế giới con người 70
2.2. Truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại - những bài học giáo dục 81
2.2.1. Những bài học giáo dục nhân cách dành cho trẻ em 81
2.2.2. Những bài học có thể có ích cho cả người lớn 95
CHƯƠNG 3: TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI - NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NgHỆ thuật .101
3.1. Hệ thống nhân vật và các biện pháp xây dựng nhân vật 101
3.1.1. Hệ thống nhân vật 101
3.1.2. Các biện pháp xây dựng nhân vật 105
3.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện 116
3.2.1. Các cách xây dựng cốt truyện 117
3.2.2. Các kiểu cốt truyện 120
3.2.3. Cốt truyện đồng thoại và kĩ thuật kể chuyện .124
3.2.4. Một số hạn chế về nghệ thuật tổ chức cốt truyện 135
3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ 135
3.3.1. Ngôn ngữ nhân vật .135
3.3.2. Ngôn ngữ người trần thuật .140
CHƯƠNG 4: TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI - NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN VỊ TRÍ thể loại .ẳ ẳ .ẳ .150 4.1.Truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại - những điều kiện phát triển .150
4.1.1. Điều kiện khách quan .150
4.1.2. Điều kiện chủ quan 154
4.2. Truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại - những đóng góp .156
4.2.1. Kế thừa có phát triển truyện đồng thoại dân gian .156
4.2.2. Đáp ứng nhu cầu của một lớp công chúng đặc biệt 160
4.2.3. Tham dự vào sách giáo khoa 164
4.2.4. Nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhiều bộ môn nghệ thuật khác 167
4.3. Truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại - những thành tựu về tác giả 172
4.3.1. Tô Hoài - người đi tiên phong và tạo được đỉnh cao 172
4.3.2. Võ Quảng - người kết nối dân gian với hiện đại .177
4.3.3. Viết Linh - người chọn một lối đi riêng 181
4.3.4. Xuân Quỳnh - người phả chất thơ vào truyện đồng thoại .185
4.3.5. Trần Đức Tiến - người chạy tiếp sức trên con đường đồng thoại .190
KẾT LUẬN 196 1. Đánh giá thành tựu phát triển của truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại .196
2. Đề xuất biện pháp phát triển truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại .197 THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .199
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH, BÀI BÁO TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .219
PHỤ LỤC TÁC PHẢM KHẢO SÁT 221
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Truyện đồng thoại là một thể loại đã có quá trình phát triển lâu dài, đạt được nhiều thành tựu, có một vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam hiện đại. Thường xuyên xuất hiện trong không gian gia đình và lớp học, truyện đồng thoại trở thành người bạn thân thiết của tuổi thơ, là nguồn dinh dưỡng tinh thần không thể thiếu trong quá trình trưởng thành của mỗi con người. Trong hoạt động giao lưu giữa các nền văn hóa với nhau, nhiều tác phẩm truyện đồng thoại đã được dịch và giới thiệu, góp phần mở rộng biên độ ảnh hưởng của văn học Việt Nam ra thế giới.
Dù vậy, cho đến nay, ở Việt Nam vẫn chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu về truyện đồng thoại. Chọn đề tài Thể loại truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam hiện đại, chúng tôi muốn khảo sát một cách hệ thống thể loại này, góp phần khắc phục một khoảng trống đáng tiếc trong đời sống nghiên cứu văn học thiếu nhi Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện đồng thoại hiện đại xuất hiện cùng với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX và ít nhiều gây được tiếng vang với tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kỷ của Tô Hoài. Dù vậy, trong giai đoạn từ 1930 đến 1945, giới lí luận phê bình đương thời chưa chú ý đến truyện đồng thoại, ngoài đoạn văn ghi nhận về “mấy truyện nhi đồng có tiếng” của Tô Hoài trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan [203, tr.422].
Từ năm 1945 đến nay, truyện đồng thoại được đề cập tới trong một số chuyên luận, giáo trình, bài báo khoa học, bài đọc sách, lời bình .
Căn cứ vào nội dung, chúng tôi thấy có thể khái quát các ý kiến trong các công trình nghiên cứu trên thành bốn nhóm sau:
2.1. Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu về đặc trưng, chức năng của thể loại truyện đồng thoại. Liên quan đến vấn đề này có các bài viết sau: Tìm hiểu đặc
điểm của đồng thoại của Vân Thanh , Lại nói về truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi của Võ Quảng , Về sức tưởng tượng của đồng thoại của Nguyễn Kiên và Truyện đồng thoại viết cho lứa tuổi nhi đồng của Định Hải . Đề cập đến đặc trưng của truyện đồng thoại, các tác giả trên đều khẳng định: Truyện đồng thoại phản ánh cuộc sống không theo quy luật tả thực mà theo quy luật của tưởng tượng. Nguyễn Kiên cho rằng: “Đặc điểm nổi bật của đồng thoại là ở sự tưởng tượng vô cùng phong phú và rộng rãi, tưởng chừng như người viết có thể bịa đặt tha hồ” [117, tr.3]. Theo họ, nhờ tưởng tượng mà cuộc sống trong truyện đồng thoại “hiện lên rõ hơn, lộng lẫy hơn, có sức khái quát cao hơn”. Nhờ đó, thể loại này dễ dàng bắt nhịp với tuổi thơ, tham gia rất sớm vào quá trình hình thành nhân cách của mỗi con người [212, tr.76].
Khi nói về đặc trưng của truyện đồng thoại, các tác giả trên cũng bàn đến vấn đề nhân vật. Theo họ, hệ thống nhân vật của truyện đồng thoại rất đa dạng, nhưng trọng tâm vẫn là loài vật, và chúng được miêu tả theo một số nguyên tắc nhất định: nhân cách hóa, cách điệu hóa .: “nhân vật của đồng thoại không chỉ là người mà còn đủ cả các loài vật, loài có xương sống hoặc không có xương sống, biết nhảy, biết bay, biết lội ( .), là các loài cây cỏ hoa quả mọc ở bất cứ khí hậu nào. Cả từ cây kim sợi chỉ cho đến đoàn tàu, chiếc cầu sắt, đều có thể biến thành nhân vật của đồng thoại” [212, tr.75]. Ghi nhận truyện đồng thoại ít nhiều gần gũi với truyện cổ tích và ngụ ngôn, Định Hải và Vân Thanh cho rằng, chính nhờ kết hợp nhuần nhuyễn khía cạnh tự nhiên và xã hội mà nhân vật truyện đồng thoại mang một vẻ riêng, vừa phản ánh thế giới loài vật, vừa trở thành ẩn dụ về cuộc sống con người ,.
Bàn về vai trò, chức năng giáo dục của truyện đồng thoại có các tác giả Ngô Quân Miện, Lã Thị Bắc Lý và Nguyễn Ánh Tuyết. Tác giả Ngô Quân Miện nhận thấy: “Việc đưa những tình cảm, tư tưởng cao đẹp vào tâm hồn các em nhi đồng qua con đường đồng thoại là con đường có hiệu quả hơn hết” [148, tr. 85]. Nhà tâm lí học Nguyễn Ánh Tuyết trong Đồng thoại với việc giáo dục trẻ thơ cũng có quan điểm tương tự khi viết rằng: Truyện đồng thoại ngắn gọn, đậm chất mơ tưởng, có khả năng khơi dậy ở các em những cảm xúc thú vị, bất ngờ; đồng thời nó “khiến
cho một đứa trẻ từ một thính giả thụ động biến thành một người tham gia tích cực vào các sự kiện của các nhân vật vốn chỉ là chim muông, cây cỏ hay những vật vô tri, vô giác mà trở thành người bạn thân thiết với chúng” [271, tr.255]. Bài viết Truyện đồng thoại với giáo dục mẫu giáo của Lã Thị Bắc Lý tiếp cận vấn đề theo hướng khác, đó là đi vào phân tích những tác động cụ thể như việc bồi dưỡng lòng nhân ái, cảm xúc thẩm mĩ . Trên cơ sở đó, tác giả đã minh chứng được khả năng to lớn của truyện đồng thoại trong việc thực hiện chức năng giáo dục, một chức năng vốn rất được coi trọng trong văn học thiếu nhi.
Những ý kiến về đặc trưng, chức năng của truyện đồng thoại nói trên, theo chúng tôi, có giá trị về mặt lí luận, sẽ được lưu tâm khi bàn về cách hiểu truyện đồng thoại ở Việt Nam.
2.2. Nhóm thứ hai: Nghiên cứu về tình hình phát triển và thành tựu của truyện đồng thoại. Vấn đề này thường được nghiên cứu trong thành tựu chung của văn học thiếu nhi, hoặc trong thành tựu riêng của một tác giả.
2.2.1. Nghiên cứu truyện đồng thoại trong diễn biến và thành tựu chung của văn học thiếu nhi: Trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 6/1962, nhà nghiên cứu Vân Thanh có bài viết Văn học thiếu nhi Việt Nam, đánh giá thành tựu văn học thiếu nhi qua mấy năm đầu phát triển. Đề cập tới một số tác phẩm truyện đồng thoại tiêu biểu như Trăng rơi xuống giếng (Đào Vũ), Cuộc đời chìm nổi của chú Kíplê (Vũ Cận), Cái tết của Mèo con (Nguyễn Đình Thi) ., Vân Thanh cho rằng, các tác giả đã xây dựng được những câu chuyện vui tươi, dí dỏm, có tác dụng làm phong phú thế giới tưởng tượng của các em [232, tr.30].
Đúng một năm sau, cũng trên Tạp chí Văn học (số 6/1963), Vân Thanh tiếp tục nêu lên tình hình phát triển của truyện đồng thoại qua bài Truyện viết cho thiếu nhi gần đây. Tập trung phân tích hai tác phẩm: Cuộc phiêu lưu của Văn Ngan tướng công (Vũ Tú Nam) và Đám cưới chuột (Tô Hoài, tái bản), Vân Thanh tỏ ý không tán đồng việc giáo dục các em bằng nhân vật phản diện (Văn Ngan), vì nếu các em bắt chước những hình tượng xấu thì rất nguy hại [233, tr.61]. Nhà nghiên cứu cũng
băn khoăn về tính không hợp thời của truyện Đám cưới chuột (Tô Hoài) trong hoàn cảnh xã hội mới.
Trong bài viết Chặng đầu của nền văn học viết cho thiếu nhi, Vũ Ngọc Bình ghi nhận sự xuất hiện của các cây bút trẻ như Văn Biển, Trần Hoài Dương . đã đem lại cho truyện đồng thoại giai đoạn chống Mỹ nhiều nét mới mẻ [16, tr.7]. Bài Tìm hiểu đặc điểm của đồng thoại của Vân Thanh cũng thể hiện một cái nhìn tương tự: sự phát triển của truyện đồng thoại trong giai đoạn chống Mĩ gắn liền với việc mở rộng chức năng phản ánh hiện thực, “đem lại cho nội dung đó hơi thở của thời đại” [237, tr.113].
Nhân năm Quốc tế thiếu nhi (1980), một cuộc hội thảo toàn quốc về văn học thiếu nhi đã được Hội nhà văn Việt Nam tổ chức tại Hà Nội (ngày 22 - 23/8/1981), thu hút sự tham gia đông đảo các nhà văn và nhà nghiên cứu. Tại Hội thảo này, nhà văn Nguyên Ngọc, thay mặt Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam trình bày bản báo cáo đề dẫn 35 năm văn học thiếu nhi. Báo cáo khẳng định: cùng với nhiểu thể loại văn xuôi khác, truyện đồng thoại đã đạt được bước tiến mạnh mẽ, nhiều tác phẩm “có sức sống, sức tỏa sáng lâu dài” [167, tr.8]. Cũng tại Hội thảo này, nhà văn Ngô Quân Miện có bài viết riêng về truyện đồng thoại với nhan đề Đồng thoại với việc bồi dưỡng tâm hồn các em . Trong phần đầu bài viết, tác giả khẳng định, truyện đồng thoại là loại truyện thích hợp nhất với các em nhi đồng, được nhiều người quan tâm khai thác. Nhờ vậy, theo thời gian, “cái vốn đồng thoại của chúng ta ngày một thêm dày và đa dạng hơn trước” [148, tr.82].
Trên Báo Văn nghệ số 30/1983, nhà thơ Định Hải cho rằng, truyện đồng thoại của ta có truyền thống từ xa xưa, phát triển mạnh trong thời kì hiện đại với sự đóng góp của nhiều thế hệ tác giả. Đặc điểm của truyện đồng thoại là viết về con vật nhưng là để nói về con người, về cuộc sống mới. Ưu điểm rõ nhất của truyện đồng thoại Việt Nam là “vui tươi, ngộ nghĩnh, ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng, tế nhị, ít khiên cưỡng”. Tuy vậy, truyện đồng thoại Việt Nam thường hay trùng lặp đề tài, nhân vật . Vì vậy, sức hấp dẫn của thể loại ít nhiều bị hạn chế . [65, tr.3].
Trong Phác thảo 50 năm văn học thiếu nhi Việt Nam, Vân Thanh thừa nhận: “Kể từ Dế Mèn của Tô Hoài, dòng đồng thoại luôn chảy trong văn học thiếu nhi Việt Nam” [243, tr.15].
Tài liệu Văn học thiếu nhi của tác giả Cao Đức Tiến được biên soạn nhằm mục đích phục vụ chương trình bồi dưỡng chuẩn hóa đội ngũ giáo viên mầm non, hệ trung học sư phạm. Theo Cao Đức Tiến, những truyện đồng thoại thành công đều “được viết bằng bút pháp vui tươi, hóm hỉnh, giàu chất thơ” [259, tr.64].
Chuyên luận Truyện viết cho thiếu nhi sau 1975 (vốn là Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn) của Lã Thị Bắc Lý là công trình nghiên cứu về một số thể loại truyện viết cho thiếu nhi trong khoảng thời gian từ 1975 đến 2000. Trong công trình này, tác giả không đặt nhiệm vụ khảo sát thể loại truyện đồng thoại với lí do: sau năm 1975, truyện đồng thoại “không còn phù hợp nữa” [140, tr.104]. Xem phần Phụ lục giới thiệu 96 tác phẩm được tác giả sử dụng khảo sát, chúng ta không thấy có tác phẩm nào thuộc thể đồng thoại. Phải chăng, những thay đổi của xã hội Việt Nam sau 1975 đã khiến cho truyện đồng thoại không còn thích ứng, buộc phải từ giã văn đàn?
Marian Tkachov là nhà văn, đồng thời là một dịch giả đã chuyển ngữ thành công Dế Mèn phiêu lưu kỷ và một số truyện đồng thoại khác của Tô Hoài, Vũ Tú Nam và Nguyễn Đình Thi sang tiếng Nga. Từ công việc của mình, ông đã thực hiện bài viết Truyện đồng thoại Việt Nam nhằm giúp bạn đọc Nga làm quen với văn học Việt Nam. Ông đã chỉ ra mối liên hệ mật thiết của truyện đồng thoại Tô Hoài với hội họa truyền thống, và xem “con người với súc vật nói cùng một thứ ngôn ngữ ( .), điều đó đã làm câu chuyện thêm tính thuyết phục” [263, tr.276].
2.2.2. Nghiên cứu truyện đồng thoại trong thành tựu riêng của tác giả: Trong trường hợp này, đối tượng nghiên cứu chính là tác giả, là toàn bộ văn nghiệp của tác giả, trong đó có những tác phẩm truyện đồng thoại. Dạng nghiên cứu này thường xuất hiện trong các chuyên luận, giáo trình và một số bài viết có tính chất khắc họa chân dung tác giả văn học.
Trước hết, phải kể đến nhà văn Tô Hoài. Trước 1945, Tô Hoài được Vũ Ngọc Phan khen là có lối viết truyện cho trẻ em “linh động và dí dỏm”, đượm màu
sắc thôn quê [203, tr.422]. Sau cách mạng, Tô Hoài được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Hầu hết các công trình nghiên cứu về Tô Hoài ít nhiều đều có đề cập đến mảng truyện đồng thoại. Có thể kể đến: Tô Hoài viết cho lứa tuổi măng non , Nhà văn Tô Hoài , Truyện loài vật của Tô Hoài , Tô Hoài, 60 năm viết . . Theo các nhà nghiên cứu, Tô Hoài đã sáng tạo được một thế giới loài vật hết sức sinh động, có nhiều phát hiện, thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, đầm ấm của tác giả trước cuộc đời [51, tr.29]. Họ cũng đánh giá cao mảng truyện đồng thoại trước 1945 của ông, xem Dế Mèn phiêu lưu kỷ là một thành công xuất sắc, xứng đáng là kiệt tác của văn học thiếu nhi Việt Nam . Về những truyện đồng thoại sau 1945, Hà Minh Đức, Phong Lê và Trần Đình Nam ghi nhận đó là kết quả của những nỗ lực nhằm đổi mới cách viết [51, tr.29], song hiệu quả nghệ thuật chưa được như ý, “không còn gây được ấn tượng sâu sắc như những truyện ông viết trong mấy năm (mới) vào nghề” [126, tr.23] . Dù vậy, trong tương quan chung, Tô Hoài vẫn xứng đáng là người ăn “giải cạn” ở thể loại này [160, tr.38].
Kế đến, phải kể tới nhà văn Võ Quảng - cây đại thụ của văn học thiếu nhi Việt Nam (1920 - 2007). Về ông, có các công trình, bài viết sau: Đồng thoại qua ngòi bút của Võ Quảng của Vũ Ngọc Bình , Truyện viết cho thiếu nhi dưới chế độ mới của Vân Thanh , Võ Quảng, 40 năm thơ văn cho thiếu nhi của Phong Lê , Đôi điều về truyện đồng thoại Võ Quảng của Bùi Văn Tiếng ; và các giáo trình: Văn học thiếu nhi Việt Nam của Dương Thu Hương và Trần Đức Ngôn , Văn học thiếu nhi Việt Nam của Lê Thị Hoài Nam , Văn học trẻ em của Lã Thị Bắc Lý , Văn học cho thiếu nhi của Châu Minh Hùng và Lê Nhật Ký . Các ý kiến đều thống nhất nhận xét: nhiều truyện của Võ Quảng được “cấu tứ trên những sự tích dân dã” [19, tr.4], giàu chất triết lí, nhưng đó là thứ triết lí “hồn nhiên mà sâu xa” [125, tr.358], “thực sự là những công trình sư phạm góp phần giáo dục cho các em cả về trí tuệ, về thẩm mĩ và về phép đối nhân xử thế trong cuộc đời” [141, tr.45].
Đến nay, ngoài Tô Hoài và Võ Quảng, chúng ta chưa có những nghiên cứu riêng về Viết Linh, Văn Biển, Trần Hoài Dương và Trần Đức Tiến .
2.3. Nhóm thứ ba: Nghiên cứu về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm truyện đồng thoại. Ở đây, tác phẩm truyện đồng thoại được xem là đối tượng nghiên cứu chính. Mục đích của người nghiên cứu là khám phá vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Nằm trong hướng nghiên cứu này có các bài viết thuộc dạng phân tích, bình giảng, giới thiệu về một tác phẩm hay một tập truyện đồng thoại cụ thể. Tùy vào tính chất, quy mô của bài viết mà tác giả đề cập tới một hay nhiều phương diện giá trị của tác phẩm.
Trên Báo Văn nghệ (số 310/1969), Hoàn Mỹ có bài giới thiệu về cuốn sách Cô Bê 20 của Văn Biển . Theo tác giả, cuốn sách đầu tay này của Văn Biển đã thể hiện được một cách sinh động, ý vị về đề tài cuộc sống mới, con người mới và tỏ ra có ưu thế khi miêu tả nội tâm và cảnh sắc thiên nhiên [157, tr.14].
Giới thiệu tập truyện Gánh xiếc lớp tôi của Viết Linh, Vũ Ngọc Bình cho rằng, phần lớn các truyện trong tập là đồng thoại khoa học, có “hình tượng đượm chất thơ, tạo nên cái trữ tình tươi mát bên cạnh mạch tự sự chủ đạo của toàn tập” [18, tr.11].
Năm 1991, nhân dịp Con chuột mù của Bùi Hiển được tái bản, Văn Hồng đã Tản mạn về Con chuột mù, khen đó là một “áng văn hay”, vì tác giả đã vượt qua được cái khó của thể loại đồng thoại, miêu tả sinh động mối quan hệ bố chồng -nàng dâu vốn ít được chú ý trong cuộc sống cũng như trong văn chương. Theo ông, câu chuyện về loài chuột này lấp lánh tính người, tình người. Do vậy, “nửa thế kỉ đã trôi qua, thiên đồng thoại này vẫn chưa mất đi bao nhiêu ý nghĩa thời sự” [100, tr.99].
Trong Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách mạng tháng Tám (Nxb Giáo dục, 1999) do Phong Thu biên soạn có 17/70 truyện đồng thoại được chọn. Cuối mỗi truyện, người tuyển chọn đều đưa ra một lời bình ngắn gọn, nhấn vào một điểm đặc sắc nào đó của câu chuyện. Trong khi bình, Phong Thu đã chú ý làm nổi bật tính chất đồng thoại của một số tác phẩm. Cụ thể, với truyện Ẽch Xanh đi học, ông viết như sau: “Câu chuyện đồng thoại vui kể về chú Ẽch Xanh đi học cứ như là kể về một cậu học trò nào đó đã ham chơi, lười học lại còn không nghe lời mẹ nên
mới gặp phải những chuyện rắc rối dại dột và trở nên yếu hèn” [255, tr.156]. Truyện Đôi cánh của Ngựa Trắng của nhà văn Thy Ngọc cũng được xem là “câu chuyện nhỏ, chứa đến mấy bài học lớn đựng trong cái lẵng “đồng thoại” hấp dẫn, xinh xinh .” [255, tr.264].
Dạng bài lời bình còn xuất hiện trong hai tập sách Những câu chuyện bổ ích và lí thú (Nxb Giáo dục, 2001) do Trần Hòa Bình và Lê Hữu Tỉnh tuyển chọn. Ở đây, chỉ có lời bình về truyện Chuyện của Bong Bóng của Lương Đình Khoa là đáng chú ý: “Chọn lối viết đồng thoại, tác giả đã tìm được một hình thức diễn đạt phù hợp với ý tưởng có màu sắc triết lí” [15, tr.132].
Giữa năm 2007, nhà xuất bản Trẻ ấn hành cuốn Tôi là Bêtô của Nguyễn Nhật Ánh. Trong dịp này, một số nhà nghiên cứu, nhà văn đã có bài phê bình về cuốn sách này. Nhà nghiên cứu Phong Lê, trên tờ nhật báo Thanh Niên (ngày 27/5/2007), tỏ rõ sự hồ hởi: “Đã lâu lắm, tôi mới lại được đọc một truyện thú như thế”. Theo ông, cái hay của Tôi là Bêtô nằm ở lối kể tự nhiên về những chuyện đời thường mà không tẻ nhạt, lại gợi được nhiều ý tưởng và triết lí hồn nhiên. Trên tờ nhật báo đó, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cũng dành cho cuốn sách những lời khen ngợi qua việc ghi nhận về thủ pháp nhân cách hóa không những được nhà văn sử dụng mà ông còn kể về con vật đó bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất với một thứ ngôn ngữ gần gũi, giản dị khiến cho người đọc dễ dàng đồng cảm với nhân vật chính của câu chuyện. Mặt khác, màu sắc triết lí trong mỗi câu chuyện nhỏ cũng góp phần làm nên giá trị thấm mĩ cho tác phẩm .
Trên Kiến thức ngày nay (số 613/2007), Lã Thị Bắc Lý xem Tôi là Bêtô là một thành công mới của Nguyễn Nhật Ánh. Điểm mạnh ở thiên truyện này là xây dựng nhân vật và cách kể chuyện lôi cuốn, ngôn ngữ giàu chất thơ .
Đọc tập truyện Xóm đồ chơi, nhà văn Lý Lan nhận thấy: “Những câu chuyện Lưu Thị Lương kể đều ngắn gọn, súc tích theo tiêu chuẩn của truyện đồng thoại và hàm chứa bài học luân lí” .
Trong số những tác phẩm được quan tâm tìm hiểu, Dế Mèn phiêu lưu kỷ của Tô Hoài là thiên truyện được nói tới nhiều và kĩ hơn cả. Ngoài những phân tíc
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 77
👁 Lượt xem: 1878
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 98
👁 Lượt xem: 384
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 28
👁 Lượt xem: 336
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 6
👁 Lượt xem: 420
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 120
👁 Lượt xem: 685
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 124
👁 Lượt xem: 537
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 7
👁 Lượt xem: 1022
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 7
👁 Lượt xem: 469
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 109
👁 Lượt xem: 464
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 36
👁 Lượt xem: 353
⬇ Lượt tải: 21
📎 Số trang: 41
👁 Lượt xem: 246
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 365
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 258
👁 Lượt xem: 494
⬇ Lượt tải: 16