Mã tài liệu: 215351
Số trang: 10
Định dạng: doc
Dung lượng file: 267 Kb
Chuyên mục: Quản trị kinh doanh
TÓM TẮT: Bài viết này sẽ xem xét phản ứng của người nuôi trước sự kiện tranh chấp thương mại giữa Viêt Nam và Mỹ. Số liệu được sử dụng trong mô hình thông qua hai cuộc điều tra trực tiếp người nuôi ở ba tỉnh An Giang, Cần Thơ và Đồng Tháp. Kết quả phân tích phần nào cho thấy người nuôi có sự thay đổi mở rộng qui mô trong thời gian gần đây. Với qui mô lớn, người nuôi có thể kiểm soát và hiệu chỉnh được giá cả trong quá trình sản xuất nếu cần thiết. Kết quả còn chỉ ra yếu tố vốn sản xuất của nông dân có thể thay thế cho yếu tố đầu vào sinh học và bổ sung cho đầu vào lao động. Những kết quả này góp phần vào các kiến nghị chính sách giúp phát triển ngành công nghiệp cá da trơn bền vững hơn.
Từ khoá: Basa và tra, Hàm chi phí tuyến biên
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng cung cấp lớn nhất cá da trơn với hai chủng loại cá basa và tra. Nghề sản xuất cá da trơn được xem là nghề truyền thống của người dân trong vùng, những tỉnh như An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ dẫn đầu trong lĩnh vực này, đây là những tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi nằm dọc theo sông Mê Kông.
Từ trước năm 1986, nghề nuôi cá basa và tra của người dân trong vùng ĐBSCL đã được hình thành phát triển. Đến 1986, được sự hỗ trợ các chuyên gia Úc và sự ra đời của công ty AGIFISH ở An Giang, sản phẩm basa và tra đã được xuất khẩu sang Úc dưới dạng phi lê. Cho đến 1990, sản phẩm phi lê cá basa và tra đã được quan tâm bởi thị trường Châu Á, như Hồng Kông, Nhật, Trung Quốc. Sự phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu làm kéo theo sự phát triển mở rộng sản xuất đến nhiều tỉnh khác ở ĐBSCL.
Có nhiều nguyên nhân tác động tích cực đến sự phát triển ngành cá da trơn của Việt Nam như: (i) sản phẩm cá ba sa và tra đáp ứng được nhu cầu về chất lượng thực phẩm của thế giới, cũng như an toàn và vệ sinh thực phẩm, (ii) cá ba sa và tra có những đặc điểm riêng biệt như mùi vị, màu sắc và độ mỡ, (iii) giá cả hấp dẫn do chi phí sản xuất thấp, (iv) chương trình xã hội hoá công tác giống được thực hiện năng động từ 1995. Trong đó, An Giang là tỉnh đi đầu trong thực hiện. Từ đó nguồn giống cá da trơn trở nên linh hoạt hơn đối với người nuôi, thay vì trước kia phải phụ thuộc nhiều vào nguồn cá giống tự nhiên.
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 124
👁 Lượt xem: 375
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 18
👁 Lượt xem: 437
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 59
👁 Lượt xem: 519
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 108
👁 Lượt xem: 571
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 77
👁 Lượt xem: 354
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 90
👁 Lượt xem: 591
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 76
👁 Lượt xem: 350
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 78
👁 Lượt xem: 354
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 77
👁 Lượt xem: 31
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 10
👁 Lượt xem: 320
⬇ Lượt tải: 16