Mã tài liệu: 220726
Số trang: 118
Định dạng: pdf
Dung lượng file: 1,273 Kb
Chuyên mục: Tổng hợp
Mục Lục Lời cảm tạ Trang
Mục lục i
Danh sách bảng, biểu đồ và hình iv
Chữ viết tắt ix
Mở đầu 1
Chương I: Tổng quan tài liệu 5
I.1 Sơ lược đặc điểm điều kiện tự nhiên & kinh tế xã hội tỉnh AG 5
I.1.1Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 5
I.1.2 Tình hình kinh tế xã hội tỉnh An giang 6
I.2 Nuôi trồng Thủy sản tại An giang 8
I.2.1 Tình hình Nuôi trồng Thủy sản tại An giang 8
I.2.2 Những nhân tố hạn chế sự phát triển nghề nuôi cá tạiAn giang 12
I.3. Bệnh cá nuôi tại An giang 14
I.4 Tình hình nghiên cứu bệnh xuất huyết của cá ba sa nói riêng
và cá nước ngọt nói chung 15
I.4.1 Trong nước 15
I.4.2 Trên thế giới 17
I.4.3 Các nghiên cứu về những lọai bệnh do vi khuẩn Aeromonas
và Pseudomonas gây ra trên đối tượng nuôi thủy sản 20
An Giang là tỉnh trọng điểm về sản xuất nông nghiệp của đồng bằng sông Cửu long. Cây lúa được xác định là cây lương thực chính yếu, chiếm vị trí chủ đạo trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Trong những năm trở lại đây, An Giang là một trong những địa phương dẫn đầu về giá trị xuất khẩu lúa gạo. Năm 1997, kim ngạch xuất khẩu nông sản của An giang đạt 132 triệu đô la Mỹ.
Bên cạnh hoạt động sản xuất nông nghiệp, An Giang là địa phương có thế mạnh về thủy sản. Với đặc điểm là một tỉnh nằm sâu trong nội địa, không tiếp giáp biển, nguồn lợi thủy sản An Giang chủ yếu là nguồn cá nước ngọt khai thác trên hệ thống sông Tiền, sông Hậu và sản lượng cá nuôi. Do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là hoạt động khai thác quá mức cùng với việc sử dụng nông dược và phương thức canh tác, nguồn lợi thủy sản An Giang đang trên đà giảm sút đáng kể. Sản lượng cá nuôi chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng sản lượng thủy sản của địa phương.
Từ lâu, người dân An Giang đã biết tận dụng các loại hình mặt nước để nuôi cá với nhiều hình thức phong phú: nuôi bè, nuôi cá ao tăng sản, Đặc biệt, hoạt động nuôi cá ở An Giang mang tính chất sản xuất hàng hóa, hàng năm cung cấp một lượng lớn nguyên liệu phục vụ cho ngành chế biến thủy sản xuất khẩu. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá Basa (Pangasius bocourti) - chiếm 75-80% sản lượng nghề nuôi cá bè - cá tra (Pangasius hypopthalmus) và một số loài cá khác như cá hú (Pangasius conchophilus), cá he (Puntius altus), cá lóc bông (Ophiocephalus micropeltes),
Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, người nuôi cá có kinh nghiệm và thị trường tiêu thụ ngày càng được mở rộng, nghề nuôi cá An Giang phát triển nhanh chóng. Sản lượng cá nuôi tăng từ 7.714 tấn (năm 1990) lên 47.933 tấn năm 1996.
Việc phát triển nghề nuôi cá trong những năm qua tại An Giang đã thiết thực góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo nguồn hàng xuất khẩu có giá trị, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, cải thiện đời sống kinh tế xã hội nông thôn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nghề nuôi cá An Giang đã và đang gặp phải nhiều khó khăn lớn. Trước hết là nguồn cá giống thu vớt từ thiên nhiên ngày càng giảm sút, không đảm bảo chất lượng và số lượng, đồng thời giá cá giống ngày càng cao. Mặt khác, thị trường xuất khẩu trong những năm gần đây biến động lớn theo chiều hướng không thuận lợi dẫn đến giá thu mua nguyên liệu của các cơ sở chế biến xuất khẩu không ổn định, ảnh hưởng đến tâm lý và phương hướng đầu tư sản xuất của người nuôi cá. Đồng thời, dịch bệnh thường xuyên xảy ra, cá bị bệnh sinh trưởng chậm, tỷ lệ sống thấp và thường bị hạ phẩm loại tại các cơ sở thu mua thủy sản chế biến xuất khẩu gây tổn thất lớn cho người nuôi cá.
Trong các trở ngại nói trên, yếu tố dịch bệnh là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển nghề nuôi cá tại An Giang. Tỷ lệ cá hao hụt do dịch bệnh trong quá trình ương nuôi cá giống cá basa đạt 30%, trong quá trình nuôi cá thương phẩm từ 5-10% (Phan Văn Ninh và cộng tác viên, 1991). Theo báo cáo số: 06/CV/TS ngày 01/4/1997 của Công ty Thủy sản An Giang (AGIFISH), gần 100% bè cá thu hoạch trong các tháng II và III năm 1997 đều có cá nhiễm bệnh đốm đỏ với các cường độ cảm nhiễm khác nhau. Cá nuôi bè nhiễm các loại bệnh đốm đỏ, đốm trắng, nấm thủy mi, trùng bánh xe ngày càng nhiều ". Tại các cơ sở thu mua, cá bị bệnh thường bị hạ phẩm cấp (cá dạt). Tỷ lệ cá dạt trong quá trình chế biến trung bình là 20%, có thời điểm lên đến 30% lượng cá thu
2
mua. Trường hợp cá basa cung ứng cho các cơ sở chế biến thủy sản đông lạnh xuất khẩu, khi xẻ cá để làm philê nếu phát hiện những đốm đỏ tụ huyết trong thịt cá, tùy theo mức độ nghiêm trọng có thể bị hạ loại hoặc trả lại toàn bộ nguyên liệu cho người nuôi.
Nhằm khắc phục tác hại của bệnh đối với nghề nuôi cá An Giang, ngành thủy sản đã phối hợp với nhiều cơ quan nghiên cứu trung ương và địa phương tiến hành nghiên cứu xác định tác nhân gây bệnh và đề xuất các biện pháp khắc phục. Kết quả các công trình nghiên cứu này đã từng bước được ứng dụng vào sản xuất mang lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, ảnh hưởng của bệnh cá, đặc biệt là bệnh xuất huyết trên vi và xoang miệng của cá basa và cá tra, vẫn chưa được khắc phục triệt để, và tiếp tục gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi cá tại An giang. Vì vậy, việc nghiên cứu về bệnh cá nuôi, tìm hiểu tác nhân và xác định phương thức phòng trị hữu hiệu là việc làm cần thiết và cấp bách nhằm góp phần ổn định và phát triển nghề nuôi cá An giang.
Được sự chấp thuận của Trường Đại học Thủy sản, Hội đồng xét duyệt đề cương luận văn tốt nghiệp cao học ngành nuôi trồng thủy sản và các cán bộ hướng dẫn khoa học, chúng tôi đã thực hiện đề tài:
"Nghiên cứu bệnh xuất huyết trên vi, xoang miệng cá Basa (Pangasius bocourti) cá tra (P. hypopthalmus) nuôi tại An Giang"
Đề tài được tiến hành với các nội dung chính:
1. Xác định tác nhân gây bệnh
2. Tìm hiểu một số đặc điểm sinh học của tác nhân gây bệnh
3. Xác định tính chất gây bệnh của tác nhân
4. Đề xuất phương hướng phòng trị bệnh
Kết quả thực hiện đề tài góp phần hiểu biết về tác nhân gây ra bệnh xuất huyết trên vi, xoang miệng của cá Basa và cá Tra tại An Giang, đặc điểm sinh học
3
và tính chất gây bệnh của tác nhân, từ đó ứng dụng vào việc xây dựng phương thức phòng trị có hiệu quả, nhằm ổn định và nâng cao năng suất cá nuôi tại địa phương. Đồng thời góp phần vào hiểu biết về bệnh thủy sản vùng đồng bằng sông Cửu long.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, do hạn chế về thời gian, kinh phí, cơ sở vật chất, đặc biệt là việc phân tích mẫu cá bệnh và các thí nghiệm vi sinh vật học được tiến hành tại Bộ môn Vi khuẩn - Phòng Sinh học Thực nghiệm thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II – Bộ Thủy sản (Tp. Hồ chí Minh), với sự đồng ý của cán bộ hướng dẫn khoa học, đề tài tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu bệnh trên cá basa. Các dữ liệu thu thập được liên quan đến bệnh xuất huyết trên vi và xoang miệng của cá tra rất hạn chế, cần phải được tiếp tục nghiên cứu bổ sung thêm
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 118
👁 Lượt xem: 590
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 40
👁 Lượt xem: 526
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 1
👁 Lượt xem: 388
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 74
👁 Lượt xem: 606
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 7
👁 Lượt xem: 382
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 74
👁 Lượt xem: 410
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 8
👁 Lượt xem: 380
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 76
👁 Lượt xem: 493
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 33
👁 Lượt xem: 661
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 43
👁 Lượt xem: 306
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 118
👁 Lượt xem: 420
⬇ Lượt tải: 16