Mã tài liệu: 229266
Số trang: 9
Định dạng: doc
Dung lượng file: 107 Kb
Chuyên mục: Luật
[FONT=Times New Roman]Dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng (Dự thảo Luật BVNTD) đang được xây dựng. Một trong những điểm mới và quan trọng của Dự thảo là các quy định về trách nhiệm sản phẩm (TNSP), trong đó có trách nhiệm nghiêm ngặt (TNNN). Bài viết bàn về trách nhiệm dựa trên yếu tố lỗi và TNNN, phân tích lý do Việt Nam nên áp dụng TNNN. Đồng thời, tác giả cũng bàn về các trường hợp miễn, giảm TNSP trong Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (Luật CLSPHH) và Dự thảo Luật BVNTD. Từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện Dự thảo trên cơ sở so sánh với Chỉ thị 85/374/EEC ngày 25/7/1985 của Cộng đồng châu Âu (Chỉ thị) về sự tương đồng trong luật, điều lệ, và những quy định hành chính của các quốc gia thành viên liên quan đến trách nhiệm đối với sản phẩm có khuyết tật và Luật BVNTD năm 1987 của Anh1.
[FONT=Times New Roman]1. Trách nhiệm dựa trên lỗi và trách nhiệm nghiêm ngặt
[FONT=Times New Roman]1.1. Trách nhiệm dựa trên lỗi
[FONT=Times New Roman]Thông thường, lỗi được xem là cơ sở thứ tư và cũng là cơ sở cuối cùng để yêu cầu bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng. Yếu tố lỗi được xem là tình trạng nhận thức có thể là cố ý, vô ý, hay ác ý2.
[FONT=Times New Roman]Yếu tố lỗi yêu cầu phải được chứng minh nhằm giảm tải cho Tòa án và kích thích chính sách “laissez faire policy”; tức là “mỗi cá nhân nên chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, với sự tác động chút ít từ phía Nhà nước nếu có thể”3. Ngoài ra, nó còn nhằm thúc đẩy việc ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật, chuyển gánh nặng chịu thiệt hại từ người phải chịu thiệt hại sang người phải BTTH, làm cho tiền BTTH dễ tính toán hơn. Yếu tố lỗi còn cho phép người gây ra thiệt hại yêu cầu được miễn hay giảm trách nhiệm do người bị thiệt hại có lỗi4. Những quan điểm trên đây dường như là có lý, nhưng liệu rằng, chỉ có thông qua yếu tố lỗi người ta mới đạt được những mục đích nói trên?
[FONT=Times New Roman]Trên thực tế có nhiều ý kiến không ủng hộ yêu cầu về lỗi5. Người ta cho rằng lỗi có thể dẫn đến những phân biệt không công bằng; đó là những người cùng gánh chịu thiệt hại về sức khỏe như nhau, nhưng lại được bồi thường khác nhau khi lỗi của người bị thiệt hại được chứng minh. Theo chúng tôi, ý kiến cho rằng lỗi có thể dẫn đến những phân biệt không công bằng là không chính xác. Việc xác định lỗi của người bị thiệt hại tức là xác định mức độ đóng góp của các bên trong việc gây ra thiệt hại. Thông qua việc xác định mức độ lỗi, Tòa án cũng dễ dàng hơn trong việc ấn định mức BTTH. Vì vậy, việc xác định mức độ lỗi của các bên sẽ bảo đảm sự công bằng cho cả người bị thiệt hại và người gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, lỗi thường khó chứng minh nên sẽ có những người làm sai nhưng không phải BTTH. Ngược lại, nếu người bị thiệt hại cố gắng chứng minh lỗi của người gây ra thiệt hại để được bồi thường, họ phải tốn rất nhiều công sức, thời gian và tiền của. Điều này sẽ làm tăng sự lo lắng và áp lực cho cả hai bên. Trong một vài trường hợp, tiền BTTH sẽ được các công ty bảo hiểm chi trả, vì thế yếu tố ngăn ngừa của lỗi ít có tác dụng. Bên cạnh đó, lỗi còn được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn khách quan của hành vi mà không quan tâm đến trình độ hay năng lực của người gây thiệt hại. Do đó, sẽ có trường hợp một người có lỗi theo quy định của pháp luật, nhưng về mặt đạo đức họ không có lỗi, hay ít nhất cũng không có lỗi theo mức độ mà pháp luật quy định.
[FONT=Times New Roman]Ở Việt Nam hiện nay, trong một số trường hợp pháp luật quy định người gây ra thiệt ra phải BTTH ngay cả khi không có lỗi, ví dụ như trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra6, trách nhiệm BTTH do làm ô nhiễm môi trường7. Đối với TNSP, theo Điều 61 của Luật CLSPHH, lỗi là một trong các cơ sở phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, trong khi TNNN, trách nhiệm không dựa trên yếu tố lỗi, được áp dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, những quy định về TNSP, trong đó có việc áp đặt TNNN đối với các chủ thể phải chịu trách nhiệm đối với khuyết tật của sản phẩm là điểm nổi bật của Dự thảo Luật BVNTD .
[FONT=Times New Roman] .
[FONT=Times New Roman]TÀI LIỆU
(1) Nguyên văn tiếng Anh: Consumer Protection Act 1987. Bài viết chỉ đề cập đến English law (luật của England và Wales).
(2) Xem Elliott, Catherine & Quinn, Frances (2005), Tort Law, 5th edn, Pearson, Edinburgh, tr. 3-5. So sánh với Phạm Kim Anh, Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự, Tạp chí Khoa học Pháp lý, 3/2003. So sánh với Rogers, W.V. Horton (2005), “Fault under English Law” in Widmer, P. (ed), Unification of tort law: fault, in Principles of European Tort Law, vol 10, Kluwer, Deventer, tr. 65-87, tại tr. 69.
(3) Elliott, Catherine & Quinn, Frances, tlđd, tr. 5.
(4) Elliott, Catherine & Quinn, Frances, tlđd, tr. 5 & 6.
(5) Elliott, Catherine & Quinn, Frances, tlđd, tr. 6 & 7.
(6) Điều 623 BLDS 2005.
(7) Điều 624 BLDS 2005.
(8) Phillips, Jerry J. (2003), Products Liability in a Nut Shell, 6th edn, West, tr. 48.
(9) Được đề cập tại Điều 1 & 4 của Chỉ thị.
(10) Product liability and the control of product risk in the European Community, in Oxford Review of Economic Policy. Vol 10, No. 1, tr. 68-83, tr. 73.
(11) Miller, C.J. & Goldberg, R.S., Product Liability, 2nd edn, OUP, Oxford, 2004, tr. 210 & 211.
(12) Head, Michael & Mann, Scott, Law in perspective: ethics, society and critical thinking, UNSW, Sydney, 2005, tr. 302.
(13) Havemann, Michael Christiani, “The EC Directive on Product Liability: Its Background, Aims and System”, in R. Hulsenbek & D. Campbell (eds), Product liability: prevention, practice and process in Europe and the United States, Kluwer, Deventer, 1989, tr. 19.
(14) Xem thêm Trần Vũ Nghi & N. Hằng (2006), Làm ăn lớn phải có bảo hiểm, http://vietbao.vn/Kinh-te/Lam-an-lon-phai-co-bao-hiem/40168842/87/.
(15) Havemann, Michael Christiani, sđd .
(16) Nguyễn Văn Cường, Vấn đề TNSP trong luật Việt Nam, Chuyên đề: Cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, Thông tin Khoa học Pháp lý, 2005, tr. 46 – 52, tr. 52. So sánh Vũ Duy Cương, Những vấn đề pháp lý về TNSP theo bản chỉ thị của Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC) và pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh – Trường Đại học Lund, 2004, tr. 63 (bản tiếng Việt). So sánh Đinh Thị Mỹ Loan, Pháp luật BVNTD của Việt Nam – Thực trạng và nhu cầu hoàn thiện, Tài liệu hội thảo khoa học: Hoàn thiện cơ chế BVNTD ở Việt Nam, 2008, tr. 5.
(17) Tăng Văn Nghĩa, Bàn về luật TNSP trong kinh doanh quốc tế, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2008, tr. 49.
(18) Theo kinh nghiệm của Pháp, kết quả của một số vụ án chủ yếu dựa trên khái niệm ‘khuyết tật’, ví dụ: Cass civ 1, 28 April 1998, Dalloz 1998 IR 142; RTDC 1998.684; JCP 1998.II.10088. Xem Duncan Fairgrieve, “L’Exception francaise? The French law of product liability” trong Fairgrieve, Duncan (ed), Product Liability in Comparative Perspective, CUP, Cambridge, 2005, tr. 89.
(19) Điểm đ, Khoản 1 và điểm đ, Khoản 2, Điều 62 của Luật CLSPHH.
(20) Case C-300/95 European Commission v United Kingdom ECR I-2649, All ER 481, đoạn. 36. Xem bình luận trong Schulze, Reiner, Schulte-Nölke, Hans, & Jones, Jackie (eds) (2002), ‘CASE NO. 20 — Commission of the European Community v The United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland’ trong A Casebook on European Consumer Law, Hart, London, tr. 263-96, tại tr. 266-69.
(21) Sđd, tr. 481.
(22) Royce-Lewis, Christine A.,Product Liability and Consumer Safety: a Practical Guide to the Consumer Protection Act, ICSA Publishing Limited, London,1988, tr. 58.
(23) Grubb, Andrew and others, The Law of Product Liability, Butterworths, London,2000, tr. 8.
(24) Grubb, Andrew and others, sđd.
(25) Theo Điều 3 Chỉ thị và Khoản 2, Điều 1 của Luật BVNTD 1987 của Anh.
(26) Trường hợp này được điều chỉnh trong Luật Cải cách Luật về Người bị thiệt hại có lỗi 1945 (Law Reform (Contributory Negligence) Act 1945).
(27) “Nguyên lý cơ bản của học thuyết này là một người không thể nhận tiền BTTH vì ông ta biết rõ rủi ro đối với những hậu quả phát sinh thiệt hại. Nói cách khác, một người không thể được BTTH cho những thiệt hại mà ông ta tự gánh chịu, và ông ta biết rõ về sự nguy hiểm đó”. Xem Tobin, Philip Chase, 25 Doctrines of Law You Should Know, Algora Publishing, New York, 2007, tr. 151.
(28) Dương Anh Sơn, Trách nhiệm sản phẩm và miễn trừ trách nhiệm sản phẩm, http://www.vibonline.com.vn/vi-VN/Forum/TopicDetail.aspx?TopicID=2616,
[FONT=Times New Roman]
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 627
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 547
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 11
👁 Lượt xem: 490
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 34
👁 Lượt xem: 572
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 34
👁 Lượt xem: 1918
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 520
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 10
👁 Lượt xem: 402
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 7
👁 Lượt xem: 327
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 459
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 14
👁 Lượt xem: 514
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 804
⬇ Lượt tải: 18
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 423
⬇ Lượt tải: 19