Mã tài liệu: 260518
Số trang: 107
Định dạng: doc
Dung lượng file: 603 Kb
Chuyên mục: Luật
[*]Chuyên mục: Luật dân sự
[*]Trường: ĐH Luật Hồ Chí Minh
[*]Loại: Đề tài tốt nghiệp
[*]File: doc
[*]Trình độ: Đại học
[*]Số trang: 108
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội phát sinh từ lâu ở nhiều nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Theo pháp luật của Việt Nam hiện nay thì:
Nuôi con nuôi được coi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của pháp luật .
Vấn đề cho và nhận con nuôi ở Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng và nó không chỉ nằm trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam, mà còn vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ Quốc gia. Ở Việt Nam, chế định nuôi con nuôi bao gồm chế định nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau ở trong nước (hay còn gọi là nuôi con nuôi trong nước) và chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được hiểu là quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam với nhau hoặc giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. Ngoài ra, việc nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau mà bên được nhận làm con nuôi là trẻ em không quốc tịch thường trú tại Việt Nam cũng được hiểu là quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài).
Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã phê chuẩn ngày 20 tháng 02 năm 1990 có ghi :
Các quốc gia thành viên mà công nhận hoặc cho phép chế độ nhận làm con nuôi phải bảo đảm rằng những lợi ích tốt nhất của trẻ em là mối quan tâm cao nhất và các quốc gia phải:
công nhận rằng việc cho trẻ em ra nước ngoài làm con nuôi có thể được coi như một biện pháp thay thế của việc chăm sóc trẻ em, nếu như trẻ em đó không thể gửi được cho một gia đình chăm nom hay nhận nuôi, hoặc không thể nào được chăm sóc một cách thích hợp bất kỳ nào ở ngay tại nước nguyên quán của trẻ em
Một trong những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề nuôi con nuôi là ưu tiên, chú trọng việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong nước, trên cơ sở kết hợp các hình thức nuôi dưỡng thích hợp ngay tại cộng đồng; chỉ coi việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể thu xếp được gia đình nuôi ở trong nước, bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em; tiến tới hạn chế và dần dần chấm dứt việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài khi các điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam đủ để bảo đảm nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em ở trong nước. Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường thì “Vấn đề nuôi con nuôi được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc ưu tiên nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi nước ngoài chỉ là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể tìm được mái ấm gia đình cho trẻ em ở trong nước”.
Cho đến nay chưa có một công trình chuyên sâu nào khảo cứu về lịch sử phát triển của chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam, nên thật khó để khẳng định chế định này xuất hiện lần đầu tiên trong cổ luật Việt Nam từ khi nào. “Nhưng trong Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới triều Lê - đạo luật thành văn cổ xưa nhất mà chúng ta còn lưu giữ được và trong tập luật lệ mang tên Hồng Đức thiện chính thư, cũng được ban hành dưới triều Lê thì chế định con nuôi đã được quy định” [50, tr.110], và kể từ đó thì các chế định nuôi con nuôi trong nước đã ngày càng được hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội từng thời kỳ.
Tuy nhiên, do tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mà việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước còn tồn tại nhiều hạn chế như: Nuôi con nuôi không đăng ký, có nghĩa là sự kiện pháp lý này chưa được công nhận tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục do pháp luật quy định, vì vậy chưa có hiệu lực pháp lý, quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ nuôi con nuôi này không được pháp luật bảo vệ như quyền hưởng di sản thừa kế ; Lợi dụng quy định về nuôi nuôi con nuôi để thực hiện những hành vi bắt cóc, mua bán trẻ em hoặc nhằm mục đích trục lợi khác, không phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi (cho con nuôi để được xuất cảnh ra nước ngoài, cho làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng để được hưởng chế độ ưu tiên, đãi ngộ của nhà nước đối với những người này, cho con nuôi để sinh con thứ ba mà không bị xử lý vi phạm nghĩa vụ kế hoạch hoá gia đình .; Việc tìm cho trẻ một gia đình thích hợp ở trong nước chưa được chú trọng, thậm trí ở một số nơi còn khó khăn. Có cơ sở nuôi dưỡng còn giữ trẻ lại để giới thiệu cho người nước ngoài làm con nuôi, mà không giới thiệu cho người Việt Nam trong nước nhận các em làm con nuôi khi họ có nguyện vọng
Căn nguyên của những tồn tại trên là việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi đã bị tác động bởi nhiều yếu tố như thể chế, năng lực cán bộ Tư pháp hộ tịch, ý thức pháp luật của người dân, do tác động của phong tục tập quán .
Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt động thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, vừa làm rõ những ưu điểm, hạn chế, vừa đề ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn pháp luật về nuôi con nuôi trong nước, đảm bảo việc cam kết của Việt Nam khi gia nhập Công ước quốc tế về quyền trẻ em cũng như việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về việc thực hiện nguyên tắc ưu tiên nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi nước ngoài chỉ là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể tìm được mái ấm gia đình cho trẻ em ở trong nước. Do đó, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước ở Việt Nam hiện nay làm luận văn thạc sĩ sẽ đáp ứng được phần nào những đòi hỏi cấp bách nói trên cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, việc thực hiện pháp luật là một nội dung quan trọng của lý luận chung về nhà nước và pháp luật, là biện pháp cơ bản để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố trật tự pháp luật. Vấn đề thực hiện pháp luật đã được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến việc thực hiện pháp luật và vấn đề nuôi con nuôi đã được công bố như:
- Đề tài “Thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay - Thực trạng và các phương hướng, giải pháp”, luận văn thạc sĩ của Lê Thanh Bình, Đại học Luật Hà Nội, 2002;
- Đề tài “Thực hiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong đồng bào dân tộc ít người ở tỉnh Yên Bái”, luận văn thạc sĩ của Hà Thành Đê, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004;
- Đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật Việt Nam”, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Phương Lan, Đại học luật Hà Nội, 2000;
- Đề tài “Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước yêu cầu gia nhập Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Viện Khoa học pháp lý và Cục con nuôi quốc tế - Bộ Tư pháp, 2003;
- Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam”, luận án tiến sĩ của Nguyễn Phương Lan, Đại học luật Hà Nội, 2007.
Nhìn chung các công trình, xuất bản phẩm trên đây đã được các tác giả nghiên cứu nghiêm túc, đóng góp được rất nhiều vấn đề cơ bản cả về lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật nói chung và những vấn đề liên quan đến lĩnh vực nuôi con nuôi dưới góc độ là một chế định của Ngành luật dân sự. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước. Đây là đề tài nghiên cứu có hệ thống về thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước. Vì vậy, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước ở Việt Nam hiện nay làm luận văn thạc sĩ là cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
- Mục đích: Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn pháp luật về nuôi con nuôi trong nước ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu, phân tích làm rõ cơ sở lý luận thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
+ Nghiên cứu thực trạng việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước trong thời gian qua.
+ Đưa ra những giải pháp để thực hiện có hiệu quả pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực tiễn thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước từ năm 2001 đến năm 2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước Việt Nam về nhà nước và pháp luật; thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước nói riêng.
- Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử mác xít, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể. Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp khác của khoa học thống kê, phân tích tài liệu thứ cấp.
6. Đóng góp khoa học mới của luận văn:
Luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống, toàn diện về thực hiện pháp luật nuôi con nuôi trong nước, vì vậy có những đóng góp khoa học mới sau:
- Phân tích các khái niệm, nội dung việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
- Đánh giá thực trạng và những yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
- Đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu quả pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
7. Ý nghĩa của luận văn:
- Về lý luận: Góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hiện pháp luật trong một lĩnh vực cụ thể.
- Về thực tiễn: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được khai thác sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ, sinh viên trong các trường đào tạo luật chuyên ngành; góp phần làm cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi trong nước.
8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3 chương, 9 tiết
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 56
👁 Lượt xem: 481
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 56
👁 Lượt xem: 411
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 906
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 115
👁 Lượt xem: 421
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 106
👁 Lượt xem: 371
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 360
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 7
👁 Lượt xem: 461
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 104
👁 Lượt xem: 529
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 52
👁 Lượt xem: 554
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 10
👁 Lượt xem: 597
⬇ Lượt tải: 57
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 490
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 120
👁 Lượt xem: 408
⬇ Lượt tải: 17
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 107
👁 Lượt xem: 599
⬇ Lượt tải: 16