Mã tài liệu: 230820
Số trang: 10
Định dạng: doc
Dung lượng file: 106 Kb
Chuyên mục: Luật
[FONT=Times New Roman]Đề nghị giao kết hợp đồng là một vấn đề quan trọng của hợp đồng. Vì vậy, Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hiệp quốc năm 1980 (CISG), Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT năm 2004 (PICC) và Bộ luật Dân sự năm 2005 của Việt Nam (BLDS 2005) đều có những quy định về vấn đề này. Qua những tình huống thực tiễn, chúng tôi tập trung phân tích, so sánh những quy định về đề nghị giao kết hợp đồng trong các văn bản trên để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLDS về đề nghị giao kết hợp đồng.
[FONT=Times New Roman]1. Đề nghị giao kết hợp đồng
[FONT=Times New Roman]Đề nghị giao kết hợp đồng về bản chất là một hành vi pháp lý đơn phương của một chủ thể bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo các điều kiện xác định.
[FONT=Times New Roman]1.1. Người nhận đề nghị
[FONT=Times New Roman]Đề nghị thường hướng tới một hoặc một số người xác định. Người nhận đề nghị có thể là một thể nhân hoặc pháp nhân: cá nhân được xác định bởi họ tên, quốc tịch, hộ khẩu thường trú (hoặc địa chỉ tạm trú); pháp nhân được xác định bởi tên gọi, trụ sở và quốc tịch. Tính xác định của người được đề nghị thường được thể hiện khi bên đề nghị gửi đề nghị giao kết hợp đồng, vì khi đó bên đề nghị đã xác định được họ muốn giao kết hợp đồng với ai.
[FONT=Times New Roman]Nếu đề nghị không được gửi tới một hoặc một số người cụ thể, nó chỉ là một phần bảng báo giá hoặc được gửi ra ngoài theo một thông báo rộng rãi, nó không tạo thành một đề nghị1, như tình huống trong vụ kiện sau2:
[FONT=Times New Roman]Tóm tắt vụ kiện: Ngày 6/4/1956, bị đơn Great Minneapolis đăng quảng cáo trên báo của thành phố Minneapolis: 9h sáng thứ bảy, những chiếc áo lông mới hiệu Sharp giá 100 USD, sẽ bán cho người có mặt đầu tiên với giá 1 USD. Ngày 13/4/1956, bị đơn tiếp tục đăng quảng cáo với nội dung: khăn choàng lông thỏ màu đen dành cho phụ nữ giá 139.50 USD, sẽ bán cho người có mặt đầu tiên với giá 1 USD.
[FONT=Times New Roman]Vào một trong những ngày thứ bảy theo như đã công bố trên quảng cáo, nguyên đơn Lefkowitz là người đầu tiên có mặt tại cửa hiệu của bị đơn và trong mỗi thời điểm, nguyên đơn yêu cầu bị đơn bán áo choàng và khăn như đã quảng cáo. Trong cả hai thời điểm, bị đơn từ chối bán hàng trưng bày cho nguyên đơn và tuyên bố trong thời điểm thứ nhất rằng, do một quy tắc của hãng, quảng cáo được đưa ra và chỉ bán cho phụ nữ. Do đó, nguyên đơn đã kiện bị đơn ra tòa vì cho rằng, bị đơn đã không thực hiện đúng cam kết đã nêu trong quảng cáo.
[FONT=Times New Roman]Giải pháp của luật: đối với tình huống trên, trong khi PICC không có quy định nào liên quan đến tính xác định của người được đề nghị, thì điều 14, 15, 24 của CISG quy định: “một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng ”; “chào hàng có hiệu lực khi nó tới nơi người được chào hàng” hoặc được coi là có hiệu lực khi “được giao bằng bất cứ phương tiện nào cho chính người được chào hàng tại trụ sở thương mại của họ, tại địa chỉ bưu chính hoặc nếu họ không có trụ sở thương mại hay địa chỉ bưu chính thì gửi tới nơi thường trú của họ”. Dấu hiệu để xác định người mà bên đưa ra đề nghị muốn hướng tới được thể hiện ngay khi bên đề nghị “gửi” đề nghị, đó là tên của pháp nhân hoặc thể nhân, địa chỉ trụ sở thương mại, địa chỉ bưu chính hoặc địa chỉ thường trú của bên đó, tức là bên đề nghị đã biết rõ bên được đề nghị là ai khi họ “gửi” đề nghị. Như vậy, quảng cáo của Great Minneapolis chỉ là một lời mời chào hàng chứ không phải là một đề nghị giao kết hợp đồng, vì nó hướng tới công chúng, một tập hợp người không xác định. Khi đăng quảng cáo, Great Minneapolis không biết được ai sẽ đọc quảng cáo cũng như không thể biết Lefkowitz sẽ là “người đầu tiên tới cửa hàng” trong vô số những người đã đọc quảng cáo và tới cửa hàng Great Minneapolis để mua các sản phẩm lông thú.
[FONT=Times New Roman]Nếu đặt ví dụ trên vào hoàn cảnh của Việt Nam thì rất khó giải quyết vì Điều 390 BLDS 2005 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. Tính xác định của bên được đề nghị được giải thích căn cứ hoàn toàn vào ý chí của bên đưa ra đề nghị. Lefkowitz có thể coi là không được xác định cụ thể theo cách lập luận ở trên khi vận dụng CISG giải quyết tình huống này; nhưng cũng có thể là được xác định nếu dựa vào tiêu chí “người đầu tiên tới cửa hàng” như cách lập luận của Lefkowitz. Khi đó, việc lựa chọn phương án nào lại phụ thuộc vào cảm tính của thẩm phán. Đó chính là hạn chế trong kỹ thuật lập pháp của Điều 390 BLDS 2005, bởi theo lý thuyết chung thì quy phạm pháp luật phải rõ ràng và đơn nghĩa để đảm bảo cho pháp luật được hiểu và áp dụng một cách thống nhất. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, Điều 390 BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ “tính xác định cụ thể của người được đề nghị” để tránh trường hợp nó được hiểu theo nhiều nghĩa, gây khó khăn trong hoạt động áp dụng pháp luật. Theo đó, cần bổ sung quy định “một bên được coi là xác định cụ thể khi bên đề nghị gửi đề nghị của mình, bằng các tiêu chí khách quan xác định được rõ bên mà đề nghị sẽ được gửi tới” vào Điều 390 BLDS 2005 hoặc quy định giống Điều 14 của CISG
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 532
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 381
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 18
👁 Lượt xem: 395
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 6
👁 Lượt xem: 336
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 469
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 6
👁 Lượt xem: 475
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 5
👁 Lượt xem: 512
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 23
👁 Lượt xem: 1104
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 467
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 282
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 6
👁 Lượt xem: 335
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 5
👁 Lượt xem: 479
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 10
👁 Lượt xem: 492
⬇ Lượt tải: 18