Tìm tài liệu

Nhung van de co ban cua ngon ngu cu chi

Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ

Upload bởi: binhnguyen

Mã tài liệu: 297454

Số trang: 165

Định dạng: pdf

Dung lượng file: 2,359 Kb

Chuyên mục: Ngôn ngữ học

Info

MS: LVNNH011

SỐ TRANG: 165

TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC

NĂM:2009

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Xã hội loài người càng phát triển thì ngôn ngữ âm thanh càng hoàn thiện và

nó thực sự đã là thành tựu vô giá của con người. Tuy vậy, cử chỉ điệu bộ vẫn không

bị tước đoạt giá trị giao tiếp vốn có của nó. Cử chỉ điệu bộ được coi là phương tiện

giao tiếp thuận tiện nhất, tiết kiệm nhất và có hiệu quả nhất sau ngôn ngữ âm thanh.

Tác động qua lại giữa cử chỉ điệu bộ và ngôn ngữ âm thanh tạo nên cấu trúc của

một hành động giao tiếp cụ thể. Nói cách khác, cử chỉ điệu bộ là hành vi không thể

thiếu để bù đắp cho sự thiếu hụt của ngôn ngữ lời nói (giao tiếp bằng lời).

Nguyễn Văn Lê cho rằng: “Trong giao tiếp, kênh lời nói và chữ viết là kênh

ngôn ngữ, còn các kênh nét mặt, tư thế, cử chỉ, trang phục, cự li là các thành phần

của sự giao tiếp phi ngôn ngữ” [19, tr. 42]. Thật vậy, giao tiếp phi ngôn ngữ (hay

giao tiếp không lời) bao gồm những dấu hiệu cơ bản sau đây: nét mặt, tư thế, cử chỉ,

khoảng cách, trang phục, khung cảnh tự nhiên, khung cảnh xã hội… Những kênh

này “không nói bằng lời” cụ thể nhưng lại hàm chứa những thông tin rất chuẩn xác,

chân thật … giúp ta nhận diện và hiểu được những thông điệp, tình cảm, tính

cách… của người đối thoại một cách trọn vẹn hơn.

Albert Maerabian nhận định: “Trao đổi thông tin diễn ra qua các phương

tiện bằng lời (chỉ bằng lời) là 7%, qua các phương tiện âm thanh (gồm giọng điệu,

giọng nói, ngữ điệu và âm thanh) là 38%, còn qua các phương tiện không bằng lời

là 55%” [Dẫn theo 24, tr. 9].

Cùng quan điểm trên, Giáo sư Berdwissel nhấn mạnh: “Giao tiếp chỉ bằng

lời trong khi trò chuyện chiếm chưa đến 35%, còn hơn 65% thông tin được trao đổi

nhờ giao tiếp không lời” [Dẫn theo 24, tr. 9].

Phần lớn các nhà nghiên cứu cho là kênh bằng lời dùng để truyền đạt thông

tin, trong khi các kênh không bằng lời dùng để “thảo luận”. Vì vậy khi một tín hiệu

bằng lời không trùng khớp với kí hiệu không lời thì người ta trông đợi vào những

thông tin không lời nhiều hơn để nhận biết ý định và thông tin thực sự của người

đối thoại.

Trong hệ thống giao tiếp không lời, cử chỉ là một phương tiện đặc trưng, tập

trung phản ánh nhiều thông tin sinh động nhất của con người. Thậm chí, có những

tình huống cử chỉ là công cụ giao tiếp duy nhất

Khi xét về ngôn ngữ cử chỉ, bàn tay là một mã giao tiếp phong phú nhất.

Krout [31, tr. 149] đã xác định được khoảng 5.000 kiểu cử chỉ khác nhau của bàn

tay diễn tả các cung bậc rất tinh tế của tình cảm và thái độ con người. Do vậy, việc

nghiên cứu ý nghĩa của các cử chỉ nói chung và cử chỉ bàn tay nói riêng là lĩnh vực

thu hút nhiều nhà nghiên cứu.

Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Những vấn đề cơ bản của ngôn

ngữ cử chỉ”. Như vậy, đề tài sẽ mang những ý nghĩa sau:

- Về mặt lí luận: Đề tài vận dụng lí thuyết của Kí hiệu học để giải thích về

mặt kí hiệu của cử chỉ và lí thuyết Tâm lý học giao tiếp làm rõ các sắc thái biểu cảm

của con người trong mỗi cử chỉ.

- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn hi vọng sẽ là tài liệu

tham khảo có ích cho những ai quan tâm đến vấn đề này.

2. Lịch sử nghiên cứu vần đề

2.1. Khái quát

Trong lịch sử của loài người, các nhà nghiên cứu nhận thấy vai trò của cử

chỉ, điệu bộ trong giao tiếp là vô cùng quan trọng.

Tác giả Marr [Dẫn theo 11, tr. 28] khẳng định ngôn ngữ cử chỉ tồn tại cách

đây một triệu đến một triệu rưỡi năm còn ngôn ngữ âm thanh chỉ có cách đây năm

vạn đến năm mươi vạn năm. Theo ông, ngôn ngữ cử chỉ có thể biểu thị tư tưởng,

khái niệm hình tượng hóa, có thể dùng làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên

trong cùng một bộ lạc và với cả các bộ lạc khác, có thể là công cụ phát triển khái

niệm của mình.

Còn Phi Tuyết Hinh cho rằng trước khi “ngôn ngữ âm thanh” bắt đầu

hình thành (khoảng 5000 hay 4000 trước công nguyên) thì cử chỉ điệu bộ chính là

thứ ngôn ngữ cổ xưa nhất của loài người. Những khai quật khảo cổ học đã chứng

Ở Úc có một bộ lạc thổ dân mang tập tục một phụ nữ nếu chồng bị chết thì phải im lặng trong bốn năm.

Trong thời gian này, người phụ nữ chỉ có thể dùng cử chỉ để “nói” với người xung quanh

minh điều đó. Ở Mê-hi-cô, người ta đã tìm thấy những bức tranh tường, những đồ

gốm, trên đó, có thể hình dung được cách đây hàng ngàn năm, những người Indien

Maia “nói với nhau bằng điệu bộ” như thế nào: ngón trỏ của tay phải chỉ ra phía

trước để hỏi “mấy?”. Bàn tay trái chỉ vào tai để bảo “hãy cẩn thận”, “hãy chú ý”

hoặc “hãy nghe”. Bên cạnh đó, người ta nêu giả thuyết là lối chữ viết, hình vẽ của

những người Mê-hi-cô xưa rất phức tạp, chủ yếu là một thứ ngôn ngữ điệu bộ.Như

vậy, ngôn ngữ cử chỉ có từ rất xa xưa.

Cùng quan điểm với hai tác giả trên, Erika Fischer - Lichte [9, tr.112] nhận

định: “Việc nghiên cứu những kí hiệu động tác (ngôn ngữ cử chỉ - Luận văn) có một

lịch sử dài lâu - nó bắt đầu từ thời Aristoteles”. Trọng tâm các mối quan tâm chủ

yếu là những kí hiệu được thực hiện bởi đôi bàn tay, được đề cập một cách hết sức

chi tiết qua môn hùng biện. Người ta đã không ngừng tiến hành những cuộc thử

nghiệm, tìm ra những mã “tự nhiên” của kí hiệu bàn tay và ghi nhận lại. Sau đó, bộ

môn nghiên cứu khoa học các động tác lấy xuất phát điểm chính từ luận đề về tính

hiệu lực chung của ngôn ngữ động tác.

Tuy nhiên, việc chối bỏ luận đề này đã mở đường cho nghiên cứu một cách

có hệ thống những kí hiệu động tác, trong tư cách một hệ thống sản sinh ý nghĩa.

Trong công trình Kí hiệu học sân khấu: nghệ thuật và điện ảnh của mình, Fischer

Lichte Erika [Dẫn theo 9, tr. 114 -115] đã đề cập đến 3 tác giả sau:

(1) Người đầu tiên là Wilhelm Wundt (nhà dân tộc học trong khu vực tiếng

Đức) trong tác phẩm 10 tập đồ sộ của ông về Tâm lí các dân tộc. Chương thứ hai về

Ngôn ngữ điệu bộ trong tập một mang tựa đề Ngôn ngữ của tác phẩm này, được

xuất bản năm 1900, thuật lại những cuộc tranh cãi quan trọng nhất về kí hiệu động

tác trong thời gian trước khi xuất hiện môn nghiên cứu ứng xử và giao tiếp hiện đại.

Nó cũng đồng thời thể hiện quá trình thử nghiệm đầu tiên, phân loại và hệ thống

hóa kí hiệu động tác một cách khoa học. Với những luận cứ và dẫn chứng thuyết

phục, Wundt đã cố gắng chứng minh sự phụ thuộc của những động tác đối với nền

văn hóa.

(2) Cũng mang tính mở đầu kỉ nguyên như vậy, trong vòng ảnh hưởng của

nền văn hóa Pháp là những kết quả nghiên cứu của Marcel Mauss, được tác giả tóm

tắt và giải thích trong bản thuyết trình về Những kĩ thuật cơ thể, báo cáo năm 1934

và xuất bản năm 1935. Trong tác phẩm này, Mauss đã trình bày rằng, không phải

chỉ những động tác trao đổi và thể hiện mà thậm chí cả những kĩ thuật của cơ thể

như ngủ, nghỉ ngơi, chuyển động, chăm sóc cơ thể, ăn uống, vv… trong mỗi một

nền văn hóa đều được thực hiện khác nhau bởi vì những động tác thực hiện chúng

đều mang tính đặc thù của nền văn hóa.

(3) Tác phẩm thứ ba, cuối cùng đã chứng minh một cách quyết định tính sai

lầm của luận đề hiệu ứng chung là cuốn sách Gesture, Race and Culture của David

Efron, xuất bản lần đầu năm 1941. Với tác phẩm tiên phong này, Efron muốn phản

lại những kết luận được bộ máy tuyên truyền phân biệt chủng tộc của chủ nghĩa

phát xít dựng ra và truyền bá rộng rãi, rằng giống người Do Thái chỉ dựa trên những

điều kiện dân tộc của họ đã chuyển động khác. Ông đã nghiên cứu những người dân

xứ Nam I-ta-li-a cũng như những người Do Thái phương Đông tại New York những

động tác thông dụng nhất. Cùng kết qủa nghiên cứu này, Efron chứng minh rằng

những động tác có thể được học hỏi giống như những ngôn ngữ, rằng chúng không

hề xuất phát từ xu hướng bẩm sinh hoặc từ những chương trình theo thuyết quyết

định.

Ngoài ra, trong dân gian có chuyện kể rằng: tu sĩ người Pháp Charles Michel

de I’Epée (1712 - 1789) một lần trú mưa trong một ngôi nhà có hai chị em sinh đôi

vừa câm vừa điếc. Ông thấy, bằng những cử chỉ hai chị em trao đổi với nhau rất

chính xác những điều mà họ muốn diễn tả. Điều này đã gây ấn tượng rất mạnh tới tu

sĩ I’Epée. Từ đó, ông mày mò sáng tạo ra thứ ngôn ngữ cử chỉ, dùng bàn tay và

ngón tay cho những người câm điếc [5, tr. 158].

Nhìn chung, ngôn ngữ cử chỉ thịnh hành vào thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX.

Những người chủ trương thuyết này cho rằng ban đầu khi mà ngôn ngữ của loài

người chưa phát triển, để giao tiếp với nhau người ta dùng tư thế của thân thể và của

tay. Nhưng về thành tựu nghiên cứu “Giao tiếp không lời” nói chung và “Ngôn ngữ

cử chỉ” nói riêng mang tính chất sâu và rộng thì còn khiêm tốn so với các ngành

khoa học khác. Theo Pease Allan nghiên cứu, cuối thế kỷ 20 đã xuất hiện nhiều nhà

khoa học - xã hội học mới - chuyên gia trong lĩnh vực giao tiếp không lời. Tác giả

nhận định: “Tưởng chừng như là vô lý là - trong một triệu năm tiến hóa của loài

người, các quan điểm giao tiếp không bằng lời chỉ mới bắt đầu được nghiên cứu

nghiêm túc mang tính hệ thống khoa học từ những năm 60, và xã hội bắt đầu biết

đến sự tồn tại của chúng chỉ sau khi Julius Fast công bố cuốn sách của mình vào

năm 1970” [24, tr. 8]. Cuốn sách tổng kết những nghiên cứu về các phương diện

giao tiếp không bằng lời do các nhà khoa học - hành vi học tiến hành trước năm

1970.

Hơn ba thập kỷ gần đây, ngôn ngữ cử chỉ đã và đang được giới nghiên cứu

trong và ngoài nước quan tâm, tìm hiểu. Theo tài liệu chúng tôi được biết, tính đến

nay, đề tài này đã có những công trình tiêu biểu ở trong và ngòai nước như sau:

2.2. Những nghiên cứu tiêu biểu

2.2.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài

Vấn đề ngôn ngữ cử chỉ đã sớm được một số nhà nghiên cứu nổi tiếng ở

nước ngoài quan tâm như: Fast Julius (1971), Gerand J. Nierenbegr & Henry

H.Calero (1971), Pease Allan (1981), Pease Allan & Barbara (2004), Fischer Lichte

Erika (1994), Roger E. Axtell (2003), Harry Collis (2000)… Luận văn xin điểm qua

những nét chính trong lí thuyết của các tác giả trên:

(1) Fast Julius với công trình Body language - được coi là tác phẩm

tiêu biểu đầu tiên quan tâm đến lĩnh vực ngôn ngữ cơ thể, tác giả đã phân tích các

nội dung khá phong phú gồm 11 chương như: The body is the message, the

wonderful world of touch, the silent language of love, body and language: use and

abuse…

(2) Gerard J. Nierenberg và Heney H. Calero khai thác cử chỉ dưới góc

độ trạng thái tâm lí: cởi mở, tự vệ đánh giá, nghi ngờ, sẵn sàng, dè dặt, hợp tác,

giận dữ…

(3) Pease Allan phân tích mỗi thành tố ngôn ngữ cử chỉ một cách riêng

biệt như: cử chỉ của lòng bàn tay, cử chỉ của bàn tay và cánh tay, cử chỉ của bàn

tay kết hợp với khuôn mặt, dấu hiệu của ánh mắt…Tác giả đã khảo sát những cử chỉ

này chủ yếu là ở những nền văn hóa của cộng đồng châu Âu và được rất nhiều độc

giả đón nhận. Và đến năm 2004, Pease Allan & Barbara đã trở thành hai

chuyên gia hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực giao tế nhân sự và ngôn ngữ cử chỉ.

Họ đã cho ra đời công trình Cuốn sách hoàn hảo về ngôn ngữ cơ thể bao gồm 19

chương với nhiều nội dung đa dạng kết hợp hình ảnh minh họa, trình bày rất chi

tiết. Chẳng hạn: quyền lực nằm trong tay bạn, điều kì diệu của nụ cười và tiếng

cười, dấu hiệu của cánh tay, những khác biệt về văn hóa, 13 điệu bộ phổ biến mà

bạn nhìn thấy mỗi ngày…

(4) Fischer Lichte Erika dưới góc độ kí hiệu học sân khấu đã miêu tả Kí

hiệu học của những hoạt động không lời bao gồm: kí hiệu nét mặt, kí hiệu động tác

và kí hiệu động tác có chuyển đổi trong không gian. Trong đó, tác giả đánh giá: “Kí

hiệu động tác đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sân khấu. Có thể tồn tại sân

khấu không có ngôn ngữ, không có âm thanh, không có hóa trang, không có trang

trí, không có đạo cụ và ánh sáng, song không thể tồn tại một sân khấu hoàn toàn từ

bỏ những chuyển động cơ thể của diễn viên, tức là những kí hiệu động tác” [9, tr.

110].

(5) Roger E. Axtell đã công bố quyển sách “Gesture - The Do’s and

taboos of body language around the world” (Cử chỉ những điều nên làm và nên

tránh trong ngôn ngữ cử chỉ khắp thế giới). Tác giả đã chia ra thành 6 chương với

những nội dung đi từ khái quát đến cụ thể như sau: sức mạnh của cử chỉ, những cử

chỉ phổ biến nhất, các cử chỉ từ đầu đến chân, cử chỉ tối hậu, những cử chỉ quan

trọng cần nhớ và danh mục cử chỉ từng quốc gia.

(6) Harry Collis trình bày một phần về Body Language (ngôn ngữ hình

thể) trong quyển sách 101 American Customs (101 phong tục Mỹ) với những cử chỉ

như: Shaking Hands (bắt tay), The “OK” Sign (cử chỉ “OK”), Thumbs Up - Thumbs

Down (cử chỉ giơ ngón cái lên và xuống), The High Five (hai người đánh lòng bàn

tay vào nhau)…

2.2.2. Những nghiên cứu ở trong nước

Ở Việt Nam, bắt đầu từ những năm 90 của thế kỉ trước, vấn đề ngôn ngữ cử

chỉ cũng bắt đầu được nghiên cứu. Sau đây, người viết xin giới thiệu những nét cơ

bản của các tác giả: Trần Tuấn Lộ (1993), Nguyễn Văn Lê (1996), Nguyễn Thiện

Giáp (2005, 2007), Minh Đức và Nam Việt (2007),… Đặc biệt là hai nhà nghiên

cứu Nguyễn Đức Dân (2006) và Nguyễn Quang (2008).

(1) Trần Tuấn Lộ đã giới thiệu tới người học giáo trình “Tâm lý học

giao tiếp”. Trong tài liệu này, tác giả có trình bày khái lược về “Ngôn ngữ, cử chỉ,

cử động và hành động trong giao tiếp”.

(2) Nguyễn Văn Lê trong tài liệu Giao tế nhân sự - Giao tiếp phi ngôn

ngữ chủ yếu chọn lọc, biên tập và giới thiệu 14 bài làm hay của thí sinh thuộc

trường Đại học Tổng Hợp TP.Hồ Chí Minh. Sau đó, đến năm 1999, trong Nhập

môn khoa học giao tiếp , ông đã dành trọn một chương viết về Sự giao tiếp phi

ngôn ngữ. Ông phân loại giao tiếp phi ngôn ngữ bao gồm: nét mặt, tư thế, cử chỉ,

khoảng cách, trang phục, giao tiếp bằng đồ vật, khung cảnh tự nhiên và khung cảnh

xã hội.

(3) Nguyễn Thiện Giáp [11, tr. 26-29] đã xem Thuyết ngôn ngữ cử chỉ là

một trong những giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ. Nội dung này đã được mở

rộng thành Những yếu tố phi lời trong hội thoại [12, tr. 90-93]. Ông đánh giá:

“Những yếu tố phi lời xuất hiện song song với các tín hiệu bằng lời, hòa lẫn với các

tín hiệu bằng lời, cùng với các tín hiệu bằng lời hình thành nên một hệ thống giao

tiếp trọn vẹn” [12, tr. 93]. Tuy nhiên, đây cũng chỉ mới là một vấn đề mới, bước

đầu được quan tâm xem xét trong những công trình nghiên cứu của tác giả.

(4) Minh Đức và Nam Việt trong tác phẩm Ngôn ngữ của bàn tay có đề

cập tới: lịch sử bàn tay, vai trò giao tiếp của tay…nhưng nội dung trọng tâm chủ

yếu là trình bày nhận biết vận mệnh của con người căn cứ vào cấu tạo của bàn tay,

đường chỉ tay.

(5) Nguyễn Đức Dân trong công trình nghiên cứu Kí hiệu học - một số

vấn đề cơ bản đã trình bày phần Ngôn ngữ cử chỉ trong chương Biểu tượng và

những kí hiệu phi ngôn ngữ là một đối tượng của Kí hiệu học. Tác giả đề cao sức

mạnh của ngôn ngữ cử chỉ - thứ ngôn ngữ không lời trong giao tiếp nói chung, phân

tích những yếu tố ảnh hưởng đến cử chỉ và xác định có những ngôn ngữ cử chỉ khác

nhau…Công trình này đặt nền móng cho việc đưa kí hiệu trở thành một môn khoa

học thực sự ở Việt Nam.

(6) Nguyễn Quang trong quyển sách Giao tiếp phi ngôn từ qua các

nền văn hóa” đã phân tích khá chi tiết Giao tiếp phi ngôn từ thông qua cận ngôn

ngữ và ngoại ngôn ngữ. Tác giả chia ngoại ngôn ngữ thành 3 loại: ngôn ngữ thân

thể, ngôn ngữ vật thể và ngôn ngữ môi trường. Trong Ngôn ngữ thân thể bao gồm:

nhãn giao, diện hiện, đặc tính thể chất, cử chỉ, tư thế, hành vi động chạm….Có thể

nói, tại Việt Nam, Giao tiếp phi ngôn từ qua các nền văn hóa của Nguyễn Quang là

công trình nghiên cứu rất đáng ghi nhận. Nguyễn Thiện Giáp đánh giá: “Công trình

này cần được truyền bá rộng rãi và cần được sử dụng làm tài liệu cho học viên cao

học và nghiên cứu sinh ngành ngôn ngữ học. Đồng thời, nó cũng là tài liệu tham

khảo rất bổ ích cho tất cả những ai quan tâm đến ngôn ngữ, giao tiếp và văn hóa”

[31, tr. 15].

Bên cạnh những công trình nghiên cứu trực tiếp, còn có những tác phẩm đề

cập đến một các gián tiếp như:

- Thế nào là cử chỉ văn minh của AĐôrôkhốp năm 1982 (Nguyễn Tam

Cường dịch) miêu tả và định hướng cho con người những cử chỉ nào là đúng và sai

để hành xử cho phù hợp nơi công cộng.

- Ngôn ngữ bí ẩn của cơ thể (Decoding the secret language of your body) của

Rush Martin trình bày với 4 chương cơ bản sau: lời than thở thì thầm của cơ

thể, những tiếng rên rỉ lớn hơn, cơ thể của phụ nữ nói thay cho tâm trí họ, những

tiếng kêu thét của phụ nữ…Tác giả đã mô tả cách thành công chữa trị bằng tâm lý ở

những bệnh nhân của mình. Nhưng ông còn muốn khái quát rộng hơn với thiện chí

đề ra phương cách phòng ngừa chung các bệnh tật, thậm chí cách tự nâng cao sức

khỏe nói chung.

Ngoài ra, còn một số bài viết được đăng trên các tạp chí, trang web đã nghiên

cứu nhiều khía cạnh khác nhau của ngôn ngữ cử chỉ:

- Trên các tạp chí:

+ “Lời chào với cái bắt tay với nụ cười”, Hoàng Tuệ , Ngôn ngữ (2), năm

1984.

+ “Bước đầu tìm hiểu giá trị thông báo của cử chỉ, điệu bộ ở người Việt

trong giao tiếp”, Thục Khánh Ngôn ngữ, (3), năm 1990.

+ “Từ những cái bắt tay ở Giơnevơ tháng 7/1954”, Thạch Anh, Quan hệ

quốc tế, (21), năm 1991.

+ “Thử tìm hiểu về ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ”, Phi Tuyết Hinh , Ngôn ngữ,

(4), năm 1996.

+ “Ngôn ngữ cử chỉ trong dạy học ngoại ngữ”, Nguyễn Qúy Mão, Nghiên

cứu giáo dục, (299), năm 1997.

+ “Ánh mắt có thể gây chết người”, Quang Duy, Việt Nam và Đông Nam Á

ngày nay, (13), năm 1999.

+ “Cử chỉ - thứ ngôn ngữ không lời”, Nguyễn Đức Dân, “Kiến thức ngày

nay” (353), năm 2000.

+ “Hình dáng điệu bộ của cấp dưới cũng là điều quan trọng”, P.H, Khoa

học và công nghệ, (17), năm 2004.

+ “Cử chỉ trong giao tiếp”, Nguyễn Quang, Khoa học xã hội và nhân văn,

Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn TPHCM, (42), năm 2008.

+ v.v …

- Trên các trang web:

+ “Thử đọc ý nghĩ qua ngôn ngữ cơ thể”, trên [url=http://www.vnexpress.net]Tin nhanh VnExpress - Đọc báo, tin tức online 24h,

ngày 25/4/2006.

+ “Ngôn ngữ cơ thể mạnh hơn cả lời nói”, trên [url=http://www.nld.com.vn]Người Lao Động Online,

ngày 12/3/2007.

+ “Giao tiếp phi ngôn ngữ”, trên http://www.doanhnhansg, ngày 2/4/2008.

+ “Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp”, trên http://www.

muabancongty.com, ngày 15/4/2008.

+ “Bị từ chức vì có cử chỉ cắm sừng”, trên [url=http://www.baomoi.com]Báo Mới - Tổng hợp thông tin tự động | BAOMOI.COM, ngày

6/7/2009.

+ v.v…

Ở trên, luận văn đã điểm qua một số công trình nghiên cứu có liên quan đến

giao tiếp không lời, ngôn ngữ cử chỉ và ngôn ngữ của bàn tay. Nhìn chung, các

công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài là những người đặt nền móng cho

đề tài Ngôn ngữ cử chỉ nói chung với nhiều nội dung và dẫn chứng sinh động nhưng

chưa cung cấp một cách có hệ thống những quan điểm lí luận. Cùng đề tài này, các

tác giả Việt Nam đã tiếp thu kế thừa, bước đầu miêu tả trên bình diện Kí hiệu học và

Tâm lý học giao tiếp. Qua những công trình nghiên cứu đó, chúng tôi nhận thấy

những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ nói chung và của người Việt nói riêng

vẫn còn quá khiêm tốn. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa và phát triển thành tựu đã có,

luận văn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ,

gắn liền với giao tiếp hàng ngày của người Việt.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

Với đề tài này, chúng tôi muốn làm sáng tỏ những quan điểm lí luận về một

loại hình của ngôn ngữ không lời và những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng

ngày của người Việt, đặc biệt tìm hiểu những cử chỉ của bàn tay.

Như vậy, luận văn sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau:

- Xác định khái niệm, tầm quan trọng và phân loại giao tiếp không lời và

những cử chỉ giao tiếp.

- Khảo sát những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng ngày của người

Việt.

- Tập trung khai thác về ngôn ngữ cử chỉ bàn tay.

Do điều kiện có hạn nên luận văn chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản của

ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp của người bình thường, chỉ đi sâu vào phần trọng

tâm của những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng ngày của người Việt và khai

thác các cách thức và ý nghĩa biểu hiện những cử chỉ của bàn tay.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp hệ thống: Người viết đọc tài liệu, các bài viết có liên quan

trực tiếp và gián tiếp đến đề tài. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu

ngôn ngữ cử chỉ, người viết rút ra những luận điểm, luận cứ nhằm làm sáng tỏ vấn

đề cần trình bày.

- Phương pháp miêu tả: Dựa vào nguồn gốc, đặc điểm và kết qủa khảo sát

của những cử chỉ để miêu tả cách thức và nội dung biểu hiện của chúng.

- Phương pháp đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu

những nét tương đồng và dị biệt trong các hình thức và ý nghĩa thể hiện của các

ngôn ngữ cử chỉ mang tính văn hóa, nghề nghiệp, vị thế xã hội, độ tuổi, giới tính…

Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, người viết sẽ sử dụng thêm các phương

pháp hỗ trợ khác: giải thích, điều tra, khảo sát …tùy theo yêu cầu của từng nội dung

cụ thể.

5. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội

dung gồm có 3 chương:

Chương 1: Chương này tóm tắt quan điểm của các nhà nghiên cứu tiêu biểu

trong và ngoài nước như Gerand J. Nierenbegr & Henry H.

Calero, Pease Allan và Barbara, Fischer Lichte Erika, Roger E.

Axtell, Trần Tuấn Lộ, Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Đức Dân,

Nguyễn Quang … về vấn đề giao tiếp không lời và ngôn ngữ cử

chỉ. Đây là chương làm tiền đề cho việc miêu tả và khảo sát về

những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng ngày của người Việt.

Chương 2: Chúng tôi đề cập đến những cử chỉ thường gặp trong giao tiếp

hàng ngày của người Việt, đã ổn định về giá trị biểu thị và đã trở

thành chuẩn mực giao tiếp trong những tình huống cụ thể, bằng

cách khai thác nội dung và hình thức thể hiện của chúng. Dựa

vào kết qủa khảo sát thực tế và những lớp cử chỉ cơ bản đối lập,

người đọc có thể thuận lợi trong việc so sánh, tìm ra những điểm

tương đồng và khác biệt rất đa dạng và phong phú của ngôn ngữ

cử chỉ. Đó là những cử chỉ hợp tác và bất hợp tác, những cử chỉ

thương yêu và giận dữ, những cử chỉ vui vẻ, hài lòng và buồn

chán, thất vọng.

Chương 3: Chương này khai thác về bàn tay - phương tiện biểu hiện tiêu

biểu nhất của ngôn ngữ cử chỉ. Những cử chỉ tiêu biểu liên quan

đến các bộ phận của bàn tay như bàn tay, cánh tay và ngón tay.

Chúng tôi kết hợp việc miêu tả hình thức thể hiện, nội dung ý

nghĩa và hình ảnh để làm sáng tỏ thêm nhiều giá trị thông tin

giao tiếp của ngôn ngữ bàn tay.

Phần bên dưới chỉ hiển thị một số trang ngẫu nhiên trong tài liệu. Bạn tải về để xem được bản đầy đủ

  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
  • Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ

GỢI Ý

Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem

Đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của các từ ngữ ...

Upload: songthan2007

📎 Số trang: 147
👁 Lượt xem: 1660
Lượt tải: 23

Bản chất và chức năng của ngôn ngữ

Upload: anhchangvuitinh291088

📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 5727
Lượt tải: 56

Quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam về ...

Upload: zerogvn

📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 563
Lượt tải: 20

Quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam về ...

Upload: conganhatinh

📎 Số trang: 14
👁 Lượt xem: 545
Lượt tải: 16

Việc tự học ngữ pháp Tiếng Nhật của sinh ...

Upload: sdkjfkdsj92

📎 Số trang: 17
👁 Lượt xem: 478
Lượt tải: 16

Một số vấn đề ngữ pháp ngữ nghĩa của lời

Upload: pioneer0011

📎 Số trang: 18
👁 Lượt xem: 643
Lượt tải: 17

Một số vấn đề ngữ pháp ngữ nghĩa của lời

Upload: thuy121280

📎 Số trang: 17
👁 Lượt xem: 447
Lượt tải: 16

Ngôn ngữ dùng trong báo chí có phải là chuẩn

Upload: tienlimeco

📎 Số trang: 19
👁 Lượt xem: 580
Lượt tải: 17

Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ 0 6 tuổi

Upload: cut_loss2010

📎 Số trang: 30
👁 Lượt xem: 1211
Lượt tải: 18

Ngôn ngữ chuẩn mực

Upload: dtck6688

📎 Số trang: 19
👁 Lượt xem: 647
Lượt tải: 18

Một số vấn đề về ngữ pháp ngữ nghĩa của lời

Upload: safarilion

📎 Số trang: 17
👁 Lượt xem: 572
Lượt tải: 16

Sử dụng ngôn ngữ cơ thể hiệu quả trong giao ...

Upload: yo_most

📎 Số trang: 39
👁 Lượt xem: 639
Lượt tải: 17

QUAN TÂM

Những tài liệu bạn đã xem

Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ

Upload: binhnguyen

📎 Số trang: 165
👁 Lượt xem: 763
Lượt tải: 16

CHUYÊN MỤC

Văn hóa nghệ thuật Ngôn ngữ học
Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ MS: LVNNH011 SỐ TRANG: 165 TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC NĂM:2009 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Xã hội loài người càng phát triển thì ngôn ngữ âm thanh càng hoàn thiện và nó thực sự đã là thành tựu vô giá của con người. Tuy vậy, cử pdf Đăng bởi
5 stars - 297454 reviews
Thông tin tài liệu 165 trang Đăng bởi: binhnguyen - 19/01/2025 Ngôn ngữ: Việt nam, English
5 stars - "Tài liệu tốt" by , Written on 19/01/2025 Tôi thấy tài liệu này rất chất lượng, đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Chia sẻ thông tin với tôi nếu bạn quan tâm đến tài liệu: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ