Mã tài liệu: 290352
Số trang: 80
Định dạng: zip
Dung lượng file: 711 Kb
Chuyên mục: Tổng hợp
LỜI MỞ ĐẦU
Chưa lúc nào vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng ở nước ta như giai đoạn hiện nay. Đất nước đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, những cơ hội và thách thức chưa từng có. Nhưng thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất những cơ hội đang đến, thậm chí, có nguy cơ khó vượt qua những thách thức, kéo dài sự tụt hậu...
Đảng đã khẳng định: Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Sau 22 năm đổi mới, GDP tính theo đầu người tăng gấp 4 lần, đời sống của nhân dân nhìn chung được nâng cao rõ rệt. Giáo dục, đào tạo, và khoa học phát triển mạnh, góp phần quan trọng vào những thành tựu của đất nước. Trình độ giáo dục phổ cập và số lượng học sinh, lực lượng lao động có đào tạo, số người tốt nghiệp các bậc học tăng nhanh so với nhiều nước, đặc biệt trong vòng 10 năm 1993 -2002 tỷ lệ đói nghèo giảm còn một nửa (từ 57% xuống còn 28%).Trên đây là sự so sánh đất nước ta với 22 năm về trước còn giờ đây trong thời buổi khoa học công nghệ chúng ta phải làm 2 so sánh nữa:
Một là: chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động so với các nước chung quanh, khoảng cách phát triển không thu hẹp được bao nhiêu; nếu lấy chỉ số thu nhập tính theo đầu người làm thước đo chung nhất, khoảng cách này có xu hướng đang rộng thêm.
Hai là: khả năng phát triển kinh tế theo chiều rộng đã tới mức trần, nước ta đứng trước đòi hỏi phải bằng mọi cách chuyển từ lợi thế so sánh dựa trên lao động giá rẻ và nhờ cậy vào tài nguyên, môi trường sang tạo ra lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người. Song nước ta đang vấp phải 3 trở lực lớn: chất lượng còn thấp về nguồn nhân lực, sự bất cập lớn của kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuât, năng lực quản lý hẫng hụt nhiều mặt.
Tình hình chung nguồn nhân lực của nước ta hiện nay là: Sau 30 năm công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 70% lao động cả nước trong lĩnh vực nông nghiệp; tỷ lệ học sinh trên triệu dân, tỷ lệ số trường các loại trên triệu dân, tỷ lệ số trường đại học trên triệu dân; tỷ lệ tốt nghiệp đại học trên triệu dân, tỷ lệ có học vị tiến sỹ trên triệu dân của nước ta đều cao hơn tất cả các nước có mức thu nhập bình quân theo đầu người tương đương như Thái Lan, nhưng chất lượng đang có nhiều vấn đề.
Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung bình – một ưu thế lớn), đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ tính trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ chuyên môn rất thấp so với một số nước trong nhóm ASEAN và Trung Quốc; số cán bộ kỹ trị và có trình độ quản lý cao rất ít so với dân số cũng như so với quy mô nền kinh tế.
Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: Nguồn nhân lực Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát, song mất cân đối nghiêm trọng:
- Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10;
- Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của TQ khoảng gấp đôi của nước ta…
Trước những thực trạng trên em đã quyết định chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp thống kê đánh giá chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Hà Tây cũ (khu vực Hà Nội 2 hiện nay) giai đoạn 2005 - 2007 và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới”.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về nguồn nhân lực
Chương 2: Vận dụng phương pháp thống kê đánh giá chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Hà Tây cũ (khu vực Hà Nội 2 hiện nay) giai đoạn 2005 - 2007
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới
Qua chuyên đề này sẽ cho ta thấy một số khía cạnh về chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh Hà Tây và cả những hạn chế của nó. Nếu giải quyết được những hạn chế đang tồn tại thì chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh nói riêng và của cả nước nói chung sẽ được nâng cao ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Và cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy giáo – PGS.TS Nguyễn Công Nhự - giảng viên khoa Thống kê trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này.
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 67
👁 Lượt xem: 305
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 78
👁 Lượt xem: 301
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 81
👁 Lượt xem: 416
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 78
👁 Lượt xem: 278
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 43
👁 Lượt xem: 416
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 36
👁 Lượt xem: 292
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 36
👁 Lượt xem: 357
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 56
👁 Lượt xem: 281
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 63
👁 Lượt xem: 269
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 56
👁 Lượt xem: 302
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 56
👁 Lượt xem: 484
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 56
👁 Lượt xem: 299
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 80
👁 Lượt xem: 222
⬇ Lượt tải: 16