Mã tài liệu: 267502
Số trang: 11
Định dạng: zip
Dung lượng file: 103 Kb
Chuyên mục: Tổng hợp
1. Mở đầu
Mục tiêu
Kể từ khi đổi mới trong những năm 1980, Việt Nam đã trải qua một quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa với tốc độ nhanh, dẫn đến việc nhà nước thu hồi một diện tích lớn đất nông nghiệp và các loại đất khác để phục vụ các mục đích phi nông nghiệp. Trong nghiên cứu này, tôi đi sâu nghiên cứu về thu hồi đất nông nghiệp và phân tích các tác động của nó đối với cuộc sống của người nông dân, đặc biệt là với sinh kế của họ.
Phương pháp luận
Hai thập kỷ vừa qua chứng kiến một số lượng ngày càng nhiều các nhà thực hành phát triển và một số học giả thử nghiệm các phương pháp nghiên cứu tham dự nhằm đạt được một nghiên cứu chính sách và hoạch định chính sách có hiệu quả hơn đối với phát triển nông thôn ở cấp địa phương. Trong số đó, các kỹ thuật hành động và phương pháp học
hỏi tham dự cũng như đánh giá tham dự nhanh nông thôn được thừa nhận rộng rãi (Robert Chambers 1994; Barbara Thomas-Slayter, Rachel Polestico, Andrea Esser et al 1995). Thường thì các kỹ thuật đánh giá nhanh về đói nghèo và các nghiên cứu chẩn đoán về đói nghèo ở nông thôn Việt Nam nghiễm nhiên thừa nhận quyền sử dụng đất đai, tiếp cận đất đai và chỉ xem xét khả năng tiếp cận vốn, dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, v.v. (MARD and UNDP 2003; Asian Development Bank 2001). Thay vào đó, nghiên cứu này ứng dụng khung sinh kế bền vững (sustainable livelihoods framework) để phân tích tiếp cận đất đai, thu hồi quyền sử dụng đất và tác động của nó đối với các hộ gia đình nông dân ở Việt Nam. Khung sinh kế bền vững là một phương pháp tiếp cận toàn diện về các vấn đề phát triển thông qua việc nhấn mạnh đến thảo luận sinh kế của con người. Nó có nguồn gốc từ phân tích của Amartya Sen về các quyền (entitlements) trong mối quan hệ với nạn đói và đói nghèo (1981) và gần đây được Cục Phát triển Quốc tế Anh (DFIT) thúc đẩy (Diana Carney (ed.) 1998) cũng như được các học giả cùng với các cơ quan phát triển ứng dụng rộng rãi (Anthony Bebbington 1999; Koos Neefjes 2000; Frank Ellis 2000).
Khái niệm sinh kế (livelihood) có thể được hiểu và sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Theo một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi thì “Sinh kế bao gồm các khả năng, các tài sản (bao gồm cả các nguồn lực vật chất và xã hội) và các hoạt động cần thiết để kiếm sống” (DFID’s Sustainable Livelihoods Guidance Sheets: 4). Một sinh kế bền vững khi nó có khả năng ứng phó và phục hồi khi bị tác động hay có thể thúc đẩy các khả năng và tài sản ở cả thời điểm hiện tại và trong tương lai trong khi không làm xói mòn nền tảng nguồn lực tự nhiên (Tim Hanstad, Robin Nielsn and Jennifer Brown 2004: 1; Diana Carney 1998: 4). Ngầm ẩn trong khung sinh kế bền vững là một lý thuyết cho rằng con người dựa vào năm loại tài sản vốn, hay hình thức vốn, để giảm nghèo và đảm bảo an ninh bảo sinh kế của mình, bao gồm: vốn vật chất (physical capital), vốn tài chính (financial capital), vốn xã hội (social capital), vốn con người (human capital) và vốn tự nhiên (natural capital), là những loại vốn đóng cả hai vai đầu vào và đầu ra. Tiếp cận sinh kế bền vững cũng thừa nhận rằng các chính sách, thể chế và quá trình có ảnh hưởng đến sự tiếp cận và việc sử dụng các tài sản mà cuối cùng ảnh hưởng đến sinh kế (Paulo Filipe 2005: 3). Khung sinh kế bền vững coi đất đai là một tài sản tự nhiên rất quan trọng đối với sinh kế nông thôn. Quyền đất đai đóng một vị trí quan trọng về nhiều mặt và tạo cơ sở để người nông dân tiếp cận các loại tài sản khác và những sự lựa chọn sinh kế thay thế (Tim Hanstad, Robin Nielsn and Jennifer Brown 2004). Chẳng hạn, đảm bảo an ninh tiếp đối với cận đất có thể là một mục tiêu sinh kế. Đất đai cũng là một tài sản tự nhiên mà qua đó có thể đạt được các mục tiêu sinh kế khác như bình đẳng giới và sử dụng bền vững các nguồn lực (Paulo Filipe 2005: 2). Ở một số quốc gia, việc thiếu tiếp cận đối với đất đai là một hạn chế quan trọng đối với sinh kế của nhiều người và những người không có đảm bảo quyền của mình đối với đất đai thì khi diễn ra thu hồi thường bị đền bù một cách không công bằng (DFID 2007: 16). Ví dụ, tiếp cận một cách không đầy đủ đối với đất đai là nhân tố cơ bản làm hạn chế khả năng cải thiện cuộc sống của hàng ngàn cư dân nông thôn như ở một số vùng của Cộng hòa Dân chủ Congo nơi có mật độ dân số rất đông (Chris Huggins, Prisca Kamungi, Joan Kariuki, Herman Musahara, Jonstone Summit Oketch, Koen Vlassenroot and Judi W. Wakhungu 2004: 6-7). Ở Việt Nam, quyền sử dụng đất hàm chứa nhiều ý nghĩa và giá trị quan trọng, bao gồm ý nghĩa và giá trị của một phương tiện sản xuất, một nguồn thu nhập và một loại tài sản có giá trị (Để xem một thảo luận sâu về các quan niệm vật chất và phi vật chất của người nông dân đối với đất đai, đọc Nguyễn Văn Sửu 2007a). Đặc biệt là đối với những người sống ở các cộng đồng nông thôn và ven đô, như nghiên cứu này chỉ ra, đất đai là một nguồn tài sản có giá trị nhất và là một loại tư liệu quan trọng để đạt được mục tiêu sinh kế. Vì thế, biến đổi trong các chế độ sở hữu đất đai hay tiếp cận đất đai dường như sẽ ảnh hưởng đến an ninh sinh kế của người nông dân. Thực tế này cho thấy một mối quan hệ mật thiết và trực tiếp giữa tiếp cận đất đai và sinh kế, vì thế “tiếp cận tốt hơn đối với đất đai có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết bốn thách thức lớn của phát triển là đảm bảo tăng trưởng nhanh hơn, giải quyết bất bình đẳng, thúc đẩy tăng trưởng bền vững và tăng cường tính di động” (DFID 2007: 5).
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 404
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 447
👁 Lượt xem: 509
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 17
👁 Lượt xem: 368
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 20
👁 Lượt xem: 531
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 16
👁 Lượt xem: 426
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 57
👁 Lượt xem: 629
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 66
👁 Lượt xem: 496
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 68
👁 Lượt xem: 377
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 32
👁 Lượt xem: 345
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 96
👁 Lượt xem: 329
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 1
👁 Lượt xem: 931
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 77
👁 Lượt xem: 358
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 11
👁 Lượt xem: 448
⬇ Lượt tải: 16