Mã tài liệu: 233741
Số trang: 31
Định dạng: doc
Dung lượng file: 220 Kb
Chuyên mục: Luật
1. Quốc gia, chủ quyền và cộng đồng quốc tế trong lịch sử
2. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế toàn cầu hoá
3. Các quốc gia và “luật WTO”
4. Cơ chế TPRM
5. Các điều khoản của các hiệp ước
6. Hệ thống giải quyết tranh chấp DSU
7. Liên hiệp châu Âu, phòng thí nghiệm cho một mô hình quản trị toàn cầu
8. Một mô hình quản trị nhiều tầng
9. Hệ điều kiện, từ áp lực kinh tế sang ảnh hưởng chính trị
10. OECD và các chiến dịch trong sạch hoá hoạt động kinh tế
11. Vai trò sen đầm quốc tế của Mỹ
12. Chuẩn quốc tế hay chuẩn đế quốc?
13. Vấn đề chủ quyền trên thế giới sau biến cố 11.9.2001
14. Định nghĩa lại chủ quyền và vai trò của nhà nước dân tộc trong thế giới toàn cầu hoá
15. Tạm kết luận
Trong những lời buộc tội toàn cầu hóa, có một luận điểm thường được đưa ra, đáng ngạc nhiên là xuất phát từ những khuynh hướng chính trị rất khác nhau nếu không muốn nói đối nghịch: từ tả sang hữu, các phong trào đối kháng thường tố cáo rằng toàn cầu hoá xâm phạm chủ quyền của các quốc gia, thậm chí đe dọa sự sống còn của các nhà nước dân tộc (nation states).
Đối với phía tả, toàn cầu hoá đồng nghĩa với chủ nghĩa tự do cực đoan trong kinh tế (ultra-liberalism). Trước sự bành trướng và sức mạnh khổng lồ của các đại công ty đa quốc gia, các nhà nước phải giới hạn lại vai trò và phạm vi hoạt động của mình và càng yếu thế hơn nữa khi phải tuân thủ các quyết định ràng buộc của các tổ chức quốc tế được coi như vừa là công cụ vừa là hiện thân của chủ nghĩa tự do cực đoan này như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund - IMF), Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization – WTO).
Theo phái hữu, nhất là ở Mỹ, chủ quyền quốc gia bị xâm phạm khi luật quốc tế không cho phép nhà nước bảo vệ quyền lợi các thành phần dân chúng qua các chính sách hành chính hay pháp chế. Thí dụ mất chủ quyền hay được đơn cử nhất là việc chính quyền Mỹ không được dùng đến các biện pháp đơn phương quen thuộc để o ép các nước khác vì như thế vi phạm các quy định của WTO, hoặc phải chấp hành các quyết định của bộ phận giải quyết tranh chấp của WTO sau các vụ kiện.
Điều rõ ràng là toàn cầu hoá đã đi kèm với sự xuất hiện của nhiều yếu tố mới, như Internet và những công nghệ tiên tiến, thay đổi cục diện và mối tương quan giữa các tác nhân : chính quyền, tổ chức quốc tế, doanh nhân, và xã hội công dân. Trong bối cảnh đó, vai trò của các nhà nước dân tộc đã thay đổi thế nào, chủ quyền quốc gia trong kinh tế có thật sự bị thương tổn không và cho đến mức độ nào? Ở đây cần phân biệt chủ quyền (sovereignty) và quyền tự chủ (autonomy), tuy trong công luận và sách vở chỉ thường dùng chữ chủ quyền để nói đến quyền tự chủ. Sự lẫn lộn dễ hiểu vì thật ra hai cụm từ này chỉ là hai mặt của một vấn đề: chủ quyền là một khái niệm pháp lý, de jure, và qưyền tự chủ là biểu hiện thực tiễn, de facto, của khái niệm ấy. Do đó chữ chủ quyền thường được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm cả hai mặt này. Nếu theo định nghĩa hẹp, như trong công pháp quốc tế, chủ quyền là quyền lực tối cao ban hành và áp dụng các luật lệ và chính sách, cai quản mọi hoạt động xã hội và chính trị trong một nước, thì có thể nói không nơi nào chủ quyền bị sứt mẻ, kể cả trong những nước thành viên của Liên hiệp châu Âu, vì chưa có hệ thống nào thay thế, ở mức quốc gia, các nhà nước trong chức năng ấy. Nhưng các nhà nước có thật sự chủ động tới đâu trong việc chọn lựa chính sách và các luật lệ và biện pháp thi hành lại là chuyện khác. Quyền tự chủ ấy bị giới hạn bởi nhiều ràng buộc và cản trở, ở mức độ quốc gia và quốc tế, do nhiều yếu tố, chủ yếu là tình hình kinh tế và chính trị thế giới, tương quan lực lượng giữa các nước, và hệ thống pháp lý quốc tế.
Trong bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu sự tương quan giữa quyền tự chủ trong kinh tế và các chuẩn kinh doanh quốc tế, chuẩn ở đây định nghĩa là những quy tắc được đa số công nhận hay bắt buộc phải theo, dẫu thành văn qua các hiệp ước song phương và đa phương, các quy định hay chỉ đạo (guidelines) của các tổ chức quốc tế, các điều lệ và tiền lệ (jurisprudence) của công pháp quốc tế, hay bất thành văn qua các thông lệ (established practice) đã trở thành nguyên tắc chung trong hoạt động và bang giao kinh tế giữa các nước, và cả các quyết định đơn phương của một vài nước
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 569
⬇ Lượt tải: 26
📎 Số trang: 3
👁 Lượt xem: 500
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 5
👁 Lượt xem: 559
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 8
👁 Lượt xem: 2143
⬇ Lượt tải: 30
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 1967
⬇ Lượt tải: 27
📎 Số trang: 7
👁 Lượt xem: 469
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 8
👁 Lượt xem: 396
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 481
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 10
👁 Lượt xem: 481
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 530
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 31
👁 Lượt xem: 486
⬇ Lượt tải: 16