Mã tài liệu: 229287
Số trang: 8
Định dạng: doc
Dung lượng file: 92 Kb
Chuyên mục: Luật
[FONT=Times New Roman]
[FONT=Times New Roman]Trong lĩnh vực lao động, cơ chế ba bên tồn tại như một hiện tượng phổ biến và có tính khách quan. Từ lâu, ở nhiều nước trên thế giới, cơ chế này đã được xác lập và vận hành, góp phần không nhỏ vào việc xây dựng và phát triển mối quan hệ lao động. Trong nền kinh tế thị trường, cơ chế ba bên được coi là phương thức tổ chức quan trọng nhằm tăng cường đối thoại xã hội để hướng tới mục tiêu căn bản là xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định. Vậy, cơ chế ba bên là gì? Việc hình thành và áp dụng cơ chế này ở Việt Nam như thế nào? Công đoàn có vai trò gì trong cơ chế ấy?
[FONT=Times New Roman]1. Khái quát chung về cơ chế ba bên
[FONT=Times New Roman]1.1 Quan niệm về cơ chế ba bên
[FONT=Times New Roman]Theo quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Cơ chế ba bên có nghĩa là bất cứ một hệ thống các mối quan hệ nào trong đó Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động là các nhóm độc lập, mỗi nhóm thực hiện những chức năng riêng. Điều đó đơn thuần chỉ là sự chuyển đổi thành các mối quan hệ xã hội của các nguyên tắc dân chủ, chính trị tự do, đa số sự tham gia của mỗi cá nhân vào những quyết định có liên quan đến họ . Nguyên tắc là những vấn đề chung không có một đối tác đơn lẻ, một hệ thống quan hệ lao động dựa trên sự kết hợp điều kiện lịch sử, chính trị, xã hội, văn hoá và mỗi hệ thống phát triển theo nguyên tắc của cuộc chơi dưới ánh sáng của nhiều thông số đó”1. Nhằm làm rõ quan điểm cơ chế ba bên của ILO, cuốn “Thuật ngữ quan hệ công nghiệp và các khái niệm liên quan” đã đưa ra định nghĩa: “Cơ chế ba bên là sự tương tác tích cực của chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động (qua các đại diện của họ) như là các bên bình đẳng và độc lập trong các cố gắng tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề cùng quan tâm. Một quá trình ba bên có thể bao gồm việc tham khảo ý kiến, thương thuyết hoặc cùng ra quyết định, phụ thuộc vào cách thức đã được nhất trí giữa các bên liên quan. Những cách thức này có thể là đặc biệt theo từng vụ việc hoặc được thể chế hoá”2.
[FONT=Times New Roman]Ở Việt Nam, trong vài năm gần đây đã có nhiều bài viết bàn về vấn đề này. Theo TS Phạm Công Trứ: “Bằng việc ký kết các hợp đồng lao động cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động, hình thành nên quan hệ lao động cá nhân – hạt nhân của cơ chế hai bên truyền thống. Sau đó, bằng việc thực hiện quyền tự do liên kết các tổ chức của cả phía người lao động và người sử dụng lao động được hình thành. Ở tầm quốc gia, đại diện của các tổ chức này cùng với đại diện của Chính phủ có mối quan hệ với nhau để cùng bàn bạc và giải quyết những vấn đề có liên quan trong lĩnh vực lao động và xã hội. Trên cơ sở và trong khuôn khổ của mối quan hệ này hình thành một cơ chế mang tính pháp lý quốc tế, đó là cơ chế ba bên”3. Còn TS. Đào Thị Hằng cho rằng: Cơ chế ba bên được hiểu là cơ chế phối hợp hoạt động giữa chính phủ, đại diện người lao động, đại diện người sử dụng lao động với tư cách là các bên độc lập và bình đẳng khi họ cùng tìm kiếm những giải pháp chung trong các vấn đề lao động, xã hội, mà cả ba bên cùng quan tâm và nỗ lực giải quyết4.
[FONT=Times New Roman]Như vậy, quan điểm của các nhà khoa học nước ta thống nhất với cách hiểu của tổ chức ILO về vấn đề này. Cơ chế ba bên suy cho cùng là sự thúc đẩy việc tìm kiếm những giải pháp mà các bên cùng nhất trí đối với những vấn đề nảy sinh do các lợi ích xã hội khác nhau. Đó là một quá trình đảm bảo cho các đối tác xã hội đều tham gia vào việc quyết định những vấn đề liên quan đến lợi ích của họ và họ có khả năng thực hiện các chính sách đó. Ngoài ra, cơ chế ba bên còn là phương tiện nhằm đảm bảo cho các chính sách của Chính phủ phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chung của xã hội, lợi ích chính đáng của các bên. Hơn nữa, nó còn được coi là một nguyên tắc chủ đạo trong quá trình thiết lập mối quan hệ lao động. Việc áp dụng nguyên tắc này vào thực tế không những mang lại sự ổn định về chính trị mà còn là yếu tố cơ bản đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững và thịnh vượng
[FONT=Times New Roman] .
[FONT=Times New Roman]TÀI LIỆU
(1) Dân chủ hoá và tổ chức của ILO (Báo cáo tại kỳ họp thứ 79 năm 1992 của Tổng giám dốc ILO), tr.45.
(2) David Macdonal và Caroline Vandenaleele, Thuật ngữ quan hệ công nghiệp và khái niệm liên quan. Tổ chức lao động quốc tế - Đội chuyên gia Tổng hợp Đông Á (ILO/EASMAT), Hà Nội 11/1997,tr. 7.
(3) TS. Phạm Công Trứ, Cơ chế ba bên trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1, 1977, tr.19 – 20.
(4) TS. Đào Thị Hằng, Cơ chế ba bên và khả năng thực thi trong pháp luật lao động Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1, 2005, tr.44.
(5) Xem: Nguyễn Xuân Thu, Cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2008.
[FONT=Times New Roman]
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 3
👁 Lượt xem: 935
⬇ Lượt tải: 25
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 621
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 2
👁 Lượt xem: 935
⬇ Lượt tải: 25
📎 Số trang: 39
👁 Lượt xem: 673
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 5
👁 Lượt xem: 651
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 467
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 474
⬇ Lượt tải: 25
📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 504
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 336
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem