Mã tài liệu: 285591
Số trang: 13
Định dạng: zip
Dung lượng file: 390 Kb
Chuyên mục: Quản trị kinh doanh
Bài báo cáo gồm các mục sau:
1. Cá Tra-Basa từ hoang dã đến một thương hiệu
2. Tìm hiểu về luật chốngbán phá giá của Mỹ
3. Vụ kiện bán phá giá cá Tra-Basa giữa Việt Nam và Mỹ năm 2002-2003
4. Bước đi của Mỹ từ sau vụ kiện
5. Từ vụ kiện cá đến vụ kiện Tôm
6. Nhìn nhận về hai vụ kiện
1. Cá Tra-Basa từ hoang dã đến một thương hiệu
Vùng hạ nguồn sông Cửu Long, tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, các lão nông dù đã ở tuổi thất thập cũng không thể biết được loài “cá bụng” quen thuộc đã xuất hiện ở quê mình từ lúc nào. Tuy nhiên, các câu chuyện dân gian đều khẳng định rằng loài cá này xuất hiện khoảng vài trăm hay vài ngàn năm trước đây. Chúng bắt cặp và sinh sản ở vùng trung lưu sông Mêkông, tại Hạ Lào và Campuchia. Cá mẹ đẻ trứng bắn vào bọt nước hoặc vào dề lục bình rồi theo dòng nước trôi về hạ nguồn sinh sôi. Thuận con nước cá trôi về sông Tiền, sông Hậu và chảy tràn ra ruộng đồng miền hạ. Khoảng một năm sau, cá con lớn gần 2 kg, lưng đen bụng trắng, da trơn mình bự như đòn bánh tét. Sau đó, chúng trở lại vùng Hạ Lào, Campuchia tiếp tục vòng đời sinh sản của chúng.
Các tỉnh An Giang, Đồng Tháp vào mùa nước nổi, người dân vớt cá con (cá bột) phiêu du tự nhiên trong dòng nước nặng phù sa, đưa vào bè ương và nuôi cho lớn thành cá thịt mang đi tiêu thụ ở các chợ nội vùng châu thổ sông Mê Kông. Nghề nuôi cá bè cũng bắt đầu từ đó. Nhưng nó chỉ thực sự phát triển vào đầu những năm 70 của thế kỷ trước.
Quy mô nuôi ngày càng lớn, thị trường ngày càng mở rộng đến khắp các thành phố lớn, thị xã, làng quê miền nam. Vào những năm 1984-1988, cũng bằng phương thức vớt cá con giống tự nhiên, một Công ty Australia phối hợp với một Công ty Việt Nam hợp tác nuôi và xuất khẩu qua thị trường Australia, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore... với dạng phi lê, cắt khúc, nguyên con làm sạch đông lạnh.
Tuy nhiên, việc đánh bắt cá bột ngày càng nhiều, không có tổ chức đã đưa đến nguy cơ làm cạn kiệt nguồn giống cá tra, basa tự nhiên. Trước tình hình đó, khoa Thủy Sản Đại học Nông Lâm Tp.HCM và Đại học Cần Thơ đã cộng tác với các nhà nghiên cứu thủy sản của Pháp, nghiên cứu quy trình sản xuất giống cá Tra, cá Basa nhân tạo. đến năm 1998, quy trình được hoàn thiện và được chuyển giao, gầy dựng nên một lực lượng sản xuất giống cá tra, cá basa nhân tạo với hơn 15.000 nông hộ liên quan.
Nghề ép cá giống đã làm giàu cho nhiều nông hộ. Ông Hai Nắm, nông dân thị trấn Hồng Ngự (Đồng Tháp) đã lập cơ sở ép cá giống và chỉ sau vài ba mùa bán cá giống đã trở thành tỷ phú, mua xe Toyota Crown, nhà cửa khang trang. Ngay sau nhà ở, trên bờ các vuông ao với vô số ô lưới mắt nhỏ để dưỡng cá, các “phòng chờ”, “phòng đẻ” của cá được lắp dựng đơn giản bằng vật liệu nhẹ. Nhiều thùng tôn tròn đường kính 80-100 cm, mỗi thùng nước được tạo sóng là nơi “tình tự” của từng cặp cá bố-mẹ 2-3 kg/con, trước khi bắt cá mẹ ra ép trứng. Đặt nằm cá mẹ nghiêng trên đùi thợ cả, chỉ sau chừng năm cái vuốt xuôi từ ức xuống gần đuôi, trứng từ bụng cá mẹ rơi xuống thau nhôm sạch. Chùm trứng vàng nhạt được đưa lên phễu kính trong, trên miệng phễu có đèn điện công suất thấp để sưởi dưỡng trứng cùng với máy thổi oxy. Cá con từ 3 ngày tuổi đã biết ăn trứng gà khuấy tan nên lớn rất nhanh. Khi được gọi là cá bột (cỡ 5-7 ngày tuổi, tương đương cá tự nhiên vớt trên sông) lũ cá con được chuyển dần sang các ô lưới thích hợp, được chăm sóc kỹ lưỡng như nuôi em bé. Sau 2 tuần tuổi, cá giống được chuẩn bị sẵn sàng xuất xưởng. Cùng với cơ sở Hai Nắm, các cơ sở tư nhân khác và 3 đơn vị sản xuất cá giống quy mô lớn, kỹ thuật tiên tiến của An Giang đã sản xuất và cung ứng hàng triệu con cá giống cho các trại, lồng bè, đăng quầng ở nhiều tỉnh, sau mỗi năm số lượng càng gia tăng.
Nuôi cá bè xuất khẩu
Cuối những năm 1980, con cá ba sa bắt đầu rời những làng bè của vùng đầu nguồn sông Tiền và sông Hậu để mở màn cho chuyến ngao du trời Tây.
Ban đầu chỉ có Đồng Tháp và An Giang, dần dần phong trào nuôi cá mở rộng ra thêm 4 tỉnh có nước ngọt: Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc Trăng. Cá nuôi xuất khẩu từ mô hình nuôi lồng bè cỡ 10-20 tấn/bè/vụ mở rộng sang ao lớn ở các cồn cát, dải đất bồi cặp sông 50-100 tấn/ha/vụ; cá biệt có nơi 200-300 tấn/ha/vụ. Hiện nay, cả vùng có tới 5.000 bè lớn nhỏ và nhiều ao, quầng đăng. Cặp các nhánh sông Cửu Long được đưa vào nuôi cá ba sa xuất khẩu 1-2 vụ/năm (nuôi công nghiệp). Nếu như những năm 1995-1996, sản lượng cá thương phẩm của cả vùng chỉ khoảng 20.000 tấn/năm, thì đến năm 2002 sản lượng tăng vọt lên 150.000 tấn. Với kỹ thuật nuôi mới, thịt cá có màu trắng pha lẫn ít mỡ, thịt ngon mềm, thơm, không mùi đất và tảo, đạt năng suất cao. Những lô hàng sản phẩm cá ba sa được xuất khẩu với nhãn hàng hoá “Catfish” sang nhiều nước châu âu và Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ năm 2002 đạt hơn 60 triệu USD, là một dấu ấn rõ nét của hàng hoá từ con cá này.
Cá ba sa lúc đó chủ yếu nuôi trong lồng bè, sản lượng rất ít và thấp. Khi thị trường nước ngoài bắt đầu chuộng và yêu cầu cung cấp ngày một nhiều hơn thì con cá ba sa ngày càng thể hiện sự đuối sức. Một công ty của Úc đã yêu cầu công ty Cataco tìm con cá gì đó thay thế sản lượng cho con cá ba sa và họ đã cử hẳn chuyên gia tới Đồng bằng sông Cửu Long để cùng công ty nghiên cứu. Trong nhiều loài cá họ thống nhất chọn con cá tra, vì có đặc điểm sinh trưởng, thịt phi lê tương tự ba sa. Thế là container cá tra phi lê đầu tiên của Việt Nam được xuất qua Úc, thị trường này sau đó chấp nhận mặt hàng này. Đó là tín hiệu đáng mừng ở buổi đầu sơ khai. Tiếp theo đó nhiều danh nghiệp cũng đã bắt chuyển sang xuất khẩu cá Tra thay vì cá Basa. Nhiều thị trường khác như Mỹ, Châu Âu cũng đã tiếp nhận sản phẩm từ loại cá này.
Như vậy, trải qua nhiều giai đoạn con cá Tra-Basa của Việt Nam đã thực sự trở thành một mặt hàng được nhiều nước trên thế giới biết đến. có thể khẳng định, con “cá bụng” ngày nào giờ đã trở thành một thương hiệu trên thị trường quốc tế.
Năm 2002, cá Tra, Basa Việt Nam đối mặt với vụ kiện bán phá giá của Mỹ. Mặc dù vụ kiện đã gây khó khăn rất nhiều cho việc xuất khẩu cá Tra, Basa của Việt Nam. Tuy nhiên nó cũng cho thấy mặt hàng này đã gây sự chú ý của một số thị trường lớn, gây lo ngại cho các nhà sản xuất tại thị trường đó.
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 27
👁 Lượt xem: 424
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 18
👁 Lượt xem: 591
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 20
👁 Lượt xem: 424
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 6
👁 Lượt xem: 430
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 136
👁 Lượt xem: 315
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 119
👁 Lượt xem: 748
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 63
👁 Lượt xem: 417
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 2264
⬇ Lượt tải: 36
📎 Số trang: 107
👁 Lượt xem: 273
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 69
👁 Lượt xem: 323
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 69
👁 Lượt xem: 246
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem