Mã tài liệu: 56942
Số trang: 20
Định dạng: docx
Dung lượng file: 70 Kb
Chuyên mục: Quản trị kinh doanh
Trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, việc nhận thức một cách đúng đắn cơ sở khoa học về mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để vận dụng vào thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Sau chiến thắng mùa xuân 1975 cả nước ta bước vào thời kỳ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã tổ chức lãnh đạo toàn dân tộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước, nhân dân ta đã thu được một số thành tựu là tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, đưa nông dân vào con đường làm ăn hợp tác, xây dựng quốc phòng vững mạnh, đánh bại cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, giữ vững toàn vẹn chủ quyền dân tộc, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên chúng ta không khỏi mắc một số thiếu sót, trong đó thiếu sót lớn nhất là tư tưởng chủ quan duy ý chí, muốn có ngay chủ nghĩa xã hội.
Về kinh tế, Nhà nước ta đã đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với lực lượng sản xuất dẫn đến vi phạm quy luật sản xuất. Hậu quả là sản xuất bị trì trệ, người lao động không chú ý đến nhà máy và hợp tác của họ. Đó chính là do quá đề cao lợi ích xã hội và tập thể còn lợi ích cá nhân người lao động bị coi nhẹ.
Về xã hội, do chủ quan duy ý chí, Nhà nước đã duy trì cơ chế quan liêu bao cấp quá lâu. Một lý do không kém phần quan trọng là đội ngũ cán bộ phần lớn trưởng thành trong chiến đấu bảo vệ tổ quốc, nay chuyển sang làm nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo, điều hành xây dựng đất nước và trực tiếp quản lý kinh tế – xã hội, đã không đáp ứng được nhiệm vụ mới.
Các nguyên nhân trên làm cho đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kéo dài bắt đầu năm 1980. Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách, chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và sự yếu kém về vận dụng các quy luật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong một thời gian dài do quá nhấn mạnh mặt quan hệ sản xuất, đặc biệt là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không xuất phát từ lực lượng sản xuất nên đã nảy sinh tư tưởng nóng vội chủ quan muốn thông qua cải tạo để nhanh chóng xoá bỏ các hình thức sở hữu tư nhân để kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế chỉ còn một loại hình sở hữu công hữu.
Từ thực tiễn những năm qua, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu. Ngay từ Đại hội IV, Đảng đã chỉ rõ: Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn thâu suốt đặc điểm của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nghĩa là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất luôn gắn bó nhau, thúc đẩy lẫn nhau. Đến Đại hội VI, Đảng ta lại nhấn mạnh việc chủ trọng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung cũng như sự hình thành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng đều tuân theo quy luật sự phù hợp này. Chính sách kinh tế nhiều thành phần được cọi là một chính sách có tính chiến lược, được chúng ta thực hiện nhất quán, lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Chính sách này ra đời xuất phát từ thực tiễn của nước ta, đồng thời cũng là sản phẩm của sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Quan điểm triết học Mác – Lênin chỉ ra: qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là qui luật khách quan, có tác động trong mọi thời đại. Do đó cần phải có nhận thức đúng đắn để xây dựng, phát triển, củng cố quan hệ sản xuất để nó hoàn thiện không ngừng với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đặc biệt trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trương theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong quá trình xây dưng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân.
Như vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ hàng đầu của Việt Nam ta hiện nay, trong đó xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu trọng tâm. Để đạt được hiệu quả cao, đúng đắn nhất thiết phải nắm vững qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam vì vậy, ta phải giải quyết song song hai nhiệm vụ cơ bản: xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và tiến hành Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Quy luật phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản chi phối toàn bộ đời sống xã hội trong nền kinh tế thị trường ngày nay nói chung và nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất có tác dụng tích cực đến sự phát triển kinh tế của Nhà nước, tuy nhiên so với các nước trên thế giới lực lượng sản xuất ở nước ta vẫn còn vẫn còn trong tình trạng thấp kém, chính vì thế, các chủ trương chính sách cuả Đảng càng phải vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất lực lượng sản xuất. Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, lực lượng sản xuất còn thấp kém, chưa đủ để thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu các thành phần kinh tế là đặc trưng cho phương thức sản xuất.
Các phương thức sản xuất này chỉ bị thay thế bằng phương thức sản xuất mới hơn khi nó không còn tác dụng đối với lực lượng sản xuất vì vậy, các thành phần kinh tế các tác dụng tích cực đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nền kinh tế thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần nhưng sự vận động phát triển của nó phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế vận động theo hướng kinh tế nhà nước, thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình sử dụng các thành phần kinh tế cần quán triệt các quan điểm lấy việc giải phóng lực lượng sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu cho việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức, kinh doanh chủ động đối với việc nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác làm cho kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng nền kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ người lao động trong nền kinh tế sản xuất xã hội thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, giữ vững độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích Quốc gia, độc lập dân tộc trong quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Đề tài gồm 2 nội dung sau:
I. Nội dung qui luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
II. Sự vận dụng qui luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 322
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 14
👁 Lượt xem: 416
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 8
👁 Lượt xem: 2480
⬇ Lượt tải: 22
📎 Số trang: 18
👁 Lượt xem: 338
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 332
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 11
👁 Lượt xem: 1132
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 38
👁 Lượt xem: 457
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 18
👁 Lượt xem: 2411
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 27
👁 Lượt xem: 600
⬇ Lượt tải: 21
📎 Số trang: 36
👁 Lượt xem: 261
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 6834
⬇ Lượt tải: 35
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 20
👁 Lượt xem: 837
⬇ Lượt tải: 16