Mã tài liệu: 240251
Số trang: 16
Định dạng: doc
Dung lượng file: 168 Kb
Chuyên mục: Tư tưởng Hồ Chí Minh
LỜI MỞ ĐẦU
“Con người cùng với thế giới người mà nó tạo ra là cả một thiên hà các vấn đề. Vấn đề con người từ đâu tới, các quan hệ của nó, sự tồn tại thế giới bên trong, thế giới bên ngoài trong thực tiễn lịch sử - xã hội của con người; con người đi đâu và về đâu; các tổ chức xã hội của con người, các kiểu con người trong tiến trình lịch sử v.v. và v.v đã từng là cội nguồn tạo ra những khoa học nghiên cứu con người và thế giới con người.”(Trích bài viết của Đỗ Huy – Tạp chí Triết học)
Con người, từ muôn đời là đề tài nghiên cứu của cả những nhà khoa học, triết học. Trước Marx, đã có rất nhiều nhà Triết học cả Phương Đông và Phương Tây nghiên cứu, đề cập về con người.
Tuy nhiên, con người chỉ được định nghĩa đơn giản theo những quan điểm duy tâm – Với Thần thánh, Chúa trời
Đến thời Mác - Lênin, con người đã được nhận định một cách đúng đắn và khách quan hơn, con người được coi là thực thể sinh vật – xã hội, là chủ thể của lịch sử, và bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.
Với tư tưởng Hồ Chí Minh, con người càng được đề cao với những quyền lợi bất khả xâm phạm.
Trong thời đại hiện nay, việc xây dựng con người nói chung, người Việt Nam nói riêng trở thành một vấn đề rất quan trọng.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài về “Xây dựng con người Việt Nam hiện nay theo quan điểm Triết học Mác - Lênin”.
Những thiếu sót trong thời gian viết đề tài chắc chắn sẽ có. Rất mong nhận được nhận xét và những đóng góp của thầy nhằm hoàn thiện hơn cho suy nghĩ của mình.
NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI.
Con người là thực thể tự nhiên và cũng là thực thể xã hội. Con người cũng chịu sự chi phối của tiến trình phát triển tự nhiện “sinh – lão – bệnh – tử”, sự chi phối của các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, con người cũng có thể chi phối được xã hội, chinh phục tự nhiên để phục vụ cho lợi ích của mình. Vì vậy, con người được coi là một phạm trù tự nhiên vả xã hội, nó cũng có bản chất và quy luật riêng của nó. Do đó, phạm trù con người đã được nghiên cứu rất nhiều trong mỗi giai đoạn lịch sữ phát triển của con người kể từ khi nền triết học ra đời. Nhìn chung từ nền triết học Phương Đông (Ấn Độ, Trung Quốc) đến nền triết học Phương Tây (Hy Lạp, triết học Phương Tây thời phục hưng, triết học cổ điển Đức ,) đầu có những nghiên cứu và định nghĩa riêng về con người và bản chất con người. Chung quy lại, tất cả đều đi tìm câu trả lời cho những vấn đề sau:
Bản chất con người là gì? Bản chất con người là bản chất tự nhiên hay xã hội.
Con người từ đâu mà có? Vị trí, vai trò của con người trong dòng chảy lịch sử tự nhiên, xã hội là gì?
Tác động của con người đối với tự nhiên và xã hội? Giữa con người và tự nhiên xã hội phải có mối quan hệ như thế nào để cùng tồn tại và phát triển?
Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi vùng lãnh thổ mà các nhà triết học có các quan niệm khác nhau về con người, về bản chất con người và vấn đề giải phóng con người.
Quan niệm con người trong triết học Phương Đông thường đi sâu vào các vấn đề nguồn gốc bản chất con người. Các nhà triết học, các học thuyết trong nền triết học này đa phần cho rằng bản chất con người là tâm linh mang nặng tính duy tâm (con người bao gồm linh hồn và thể xác trong đó linh hồn có trước thể xác và linh hồn quan trọng nhất), con người là do thượng đế tạo ra. Tiêu biểu là các học thuyết của triết học Ấn Độ như kinh Vêđa, kinh Upanihad, triết học phật giáo ,) triết học Trung Quốc thì đi tìm bản chất con người từ đó xây dựng và giải phóng con người trong xã hội và trong tự nhiên tiêu biểu là các nền tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Dương Chu
Quan niệm con người trong triết học Phương Tây thường tập trung mọi cố gắng nghiên cứu con người một cách khá toàn diện và đặc biệt đề cao con người coi “con người là trung tâm của vũ trụ” thước đo của vạn vật. Quan niệm của nền triết học này thường mang tính duy vật chủ quan hoặc vừa duy tâm, vừa duy vật. Chính quan điểm triết học về con người trong nền triết học Phương Tây đã giải phóng con người và đưa con người lên tầm cao mới, con người là trung tâm của xã hội, con người có thể chinh phục được tự nhiên. Từ đó đưa nên khoa học tri thức ngày càng phát triển và cũng chính nền tri thức khoa học tự nhiên xã hội lại chỉ rõ ra những vấn đề quan trọng trong việc giải phóng con người làm con người ngày càng phát triển cả về thể chất tự nhiên lẫn tinh thần.
Tuy nhiên, cả hai nền triết học trên vẫn còn nhiều mặt mâu thuẩn, chủ yếu là mâu thuẩn giữa hai hệ tư tưởng tư duy là duy vật và duy tâm, vẫn còn lẫn quẫn khi cho rằng linh hồn con người là do đấng siêu nhiên tạo thành.
Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người.
Kế thừa có phê phán và phát triển trên những quan niệm trên cũng như tránh các sai lầm về quan niệm của hai nền triết học trên, triết học Mác – Lênin có những nghiên cứu và lý luận về con người một cách riêng và cụ thể hơn. Điểm xuất phát để nghiên cứu về con người của triết học Mác đó là con người trong hoạt động thực tiễn, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó. Triết học Mác đã đưa ra các quan niệm khoa học về con người như sau:
I.1 Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư duy . Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình".
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên".
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa . quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được "nhân hóa" để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 6651
⬇ Lượt tải: 53
📎 Số trang: 20
👁 Lượt xem: 609
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 799
⬇ Lượt tải: 22
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 616
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 20
👁 Lượt xem: 1487
⬇ Lượt tải: 33
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 517
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 1048
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 23
👁 Lượt xem: 718
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 11
👁 Lượt xem: 544
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 31
👁 Lượt xem: 1231
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 26
👁 Lượt xem: 512
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 16
👁 Lượt xem: 593
⬇ Lượt tải: 17