Mã tài liệu: 252751
Số trang: 18
Định dạng: doc
Dung lượng file: 88 Kb
Chuyên mục: Triết học
LỜI NÓI ĐẦU
Triết học Mác ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XIX đã chỉ ra rằng Thế
giới vật chất không chỉ tồn tại trong sự thống nhất đa dạng của các sự vật hiện tượng mà còn giữa chúng có mối liên hệ biện chứng trong sự vận động và phát triển không ngừng theo những quy luật vốn có của nó.
Thế giới vật chất như một chỉnh thể thống nhất, trong đó các sự vật hiện
tượng và các quá trình cấu thành thế giới vừa tách biệt nhau vừa có sự quan hệ qua lại thâm nhập chuyển hóa lẫn nhau. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại cho biết phương thức vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự liên hệ, tác động qua lại làm cho các sự vật vận động và phát triển không ngừng.
Phát triển theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là kết quả của
quá trình thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất. Đây là nội dung quan trọng của quy luật chuyển hóa về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại –một trong những vấn đề cơ bản của phép biện chứng duy vật triết học Mác
Bài tập nhóm gồm những phần sau đây:
Phần thứ nhất: Những vấn đề lý luận chung
Phần thứ hai: Lý giải và minh họa sự biểu hiện của nó trong các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy.
Phần thứ ba: Ý nghĩa phương pháp luận.
Phần thứ tư: Kết luận.
Phần thứ nhất : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. PHẠM TRÙ “CHẤT” VÀ “LƯỢNG”
Theo Arixtốt, “chất” là tất cả những gì có thể phân ra thành những bộ phận cấu thành, còn “lượng” được phân thành hai loại: số lượng (là loại lượng mang tính rời rạc) và đại lượng (là loại lượng mang tính liên tục). Ông cũng đạt được bước tiến đáng kể trong việc nghiên cứu phạm trù “độ”, xem “độ” là cái thống nhất, cái không thể phân chia giữa “chất” và “lượng”.
Quan điểm biện chứng về “chất” và “lượng” đạt được bước phát triển mới trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học Hê ghen. Với quan điểm biện chứng, Hêghen cho rằng chất phát triển từ “chất thuần túy” đến “chất được xác định”, chất phát triển đến tột độ thì ra đời lượng. Lượng cũng không ngừng tiến hóa, “số lượng” là đỉnh cao nhất trong sự tiến hóa của lượng. Hê ghen cũng xem xét tính độc lập tương đối giữa sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất trong một khoảng nhất định, đó là cơ sở để hình thành phạm trù “độ”.
Trong việc xem xét mối quan hệ giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất, Hêghen đặc biệt chú ý tới phạm trù “bước nhảy”. Chính dựa trên tư tưởng này của Hêghen mà Lê Nin đã rút ra một kết luận quan trọng: việc có thừa nhận bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo quan điểm biện chứng hay quan điểm siêu hình về sự phát triển. Tất nhiên, với tư cách là nhà triết học duy tâm, Hêghen đã xem các phạm trù chất, lượng, độ chỉ như những nấc thang tự phát của tinh thần, của ”ý niệm tuyệt đối”.
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác.
Thuộc tính là một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật, nó được bộc lộ ra trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác. Do vậy, để nhận thức được chất với tư cách là sự tổng hợp tất cả các thuộc tính vốn có của nó, chúng ta phải nhận thức sự vật trong tổng hợp các mối quan hệ có thể có giữa sự vật đó với sự vật khác.
Mỗi sự vật có muôn vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật cũng có một
phức hợp những đặc trưng về chất của mình, khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi sự vật có vô vàn chất. Cho nên khi diễn đạt tính không thể tách rời giữa chất và sự vật cũng như tính nhiều chất của nó. Ph. Ăng ghen cho rằng, những chất lượng không tồn tại, mà những sự vật có chất lượng, hơn nữa, những sự vật có vô vàn chất lượng mới tồn tại. Mỗi sự vật có vô vàn thuộc tính. Các thuộc tính khác nhau có vị trí không như nhau, trong đó, có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của sự vật. Ở mỗi một sự vật chỉ có một chất cơ bản, đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật.
Chất của sự vật không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn bởi cấu trúc của sự vật, bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó. Trong tự nhiên và trong xã hội có không ít sự vật, mà xét riêng về các yếu tố cấu thành, chúng hoàn toàn đồng nhất, nhưng các sự vật đó lại khác nhau về chất. Việc nắm được tính cấu trúc của sự vật cho phép hiểu được vì sao sự thay đổi hay mất đi của một số thuộc tính này hay thuộc tính khác của sự vật nhưng không trực tiếp dẫn đến thay đổi chất của nó. Chẳng hạn, ngày nay do tiến bộ khoa học – công nghệ, do đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động mà sự quản lý trực tiếp của nhà tư bản đối với doanh nghiệp có xu hướng giảm, giai cấp tư sản ở một số nước thực hiện chủ trương cổ phần hóa một bộ phận cho những người lao động, trung lưu hóa một bộ phận đáng kể dân cư, nhưng chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất vẫn tồn tại, quan hệ giữa tư bản với lao động vẫn là quan hệ bóc lột và bị bóc lột. Bởi vì, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối vẫn do quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa quy định. Có thể nói, tuy có một số thay đổi như nêu trên, nhưng ở các nước đó, chủ nghĩa tư bản vẫn là chủ nghĩa tư bản. Từ đó có thể thấy sự thay đổi về chất của sự vật không chỉ phụ thuộc vào sự thay đổi những yếu tố cấu thành, nó còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. Tính xác định về chất của một loại đối tượng nào đó là tính như nhau của các đối tượng đó. Giữa các đối tượng thuộc cùng loại có thể có sự khác nhau về lượng. Chúng có thể lớn hơn hay nhỏ hơn, chúng có thể khác nhau về thể tích, về đại lượng Như vậy ngoài tính quy định về chất, bất kỳ sự vật nào cũng có tính quy định về lượng. Đối với các đối tượng cùng loại, lượng là cái nói lên mặt đồng nhất giữa chúng. Trong thực tế, như trên đã đề cập, ngay các đối tượng cùng loại cũng có nhiều thuộc tính không như nhau. Từ những đối tượng vốn rất đa dạng đó, muốn tìm ra sự đồng nhất để từ đó đi đến ý niệm về lượng, đòi hỏi phải có sự trừu tượng hóa, tư duy bỏ qua tất cả những sự khác nhau vốn có thật của các đối tượng cùng loại.
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật
về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó. Lượng được thể hiện thành số lượng, đại lượng, trình độ, quy mô, nhịp điệu của sự vận động và phát triển – tức là được thể hiện trong các thuộc tính không gian, thời gian của các sự vật và hiện tượng. Lượng cũng mang tính khách quan, con người không thể sáng tạo ra hay hủy bỏ được lượng của sự vật. Những đặc trưng về lượng (đặc biệt là đại lượng) cũng được biểu hiện trong những mối quan hệ nhất định.
Trong thực tế có những thuộc tính về lượng của sự vật không thể biểu thị một cách chính xác bằng số lượng hay đại lượng. Thí dụ, trình độ giác ngộ cách mạng, phẩm chất tư cách đạo đức của một người Trong những trường hợp như thế, để có tri thức đúng đắn về lượng phải có sự trừu tượng hóa cao với một phương pháp khoa học.
Không chỉ chất mà ngay cả thuộc tính về chất cũng có tính quy định về lượng. Do vậy, một sự vật có vô vàn lượng.
II. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG VÀ THAY ĐỔI VỀ CHẤT
Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, chất và lượng đều biến đổi. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản về chất của sự vật đó. Vượt qua giới hạn đó, cũng có thể làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời.
Phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất là độ, khoảng giới hạn, mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút. Điểm nút là sự thay đổi căn bản về chất được thực hiện. Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ dẫn tới sự ra đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Sự vận động và phát triển là không cùng. Do đó, sự vận động, biến đổi của các sự vật sẽ hình thành một đường nút của những quan hệ về độ.
Phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra là bước nhảy
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 3985
⬇ Lượt tải: 37
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 8696
⬇ Lượt tải: 33
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 7401
⬇ Lượt tải: 39
📎 Số trang: 11
👁 Lượt xem: 528
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 14
👁 Lượt xem: 479
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 14
👁 Lượt xem: 692
⬇ Lượt tải: 29
📎 Số trang: 14
👁 Lượt xem: 3845
⬇ Lượt tải: 36
📎 Số trang: 11
👁 Lượt xem: 547
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 494
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 579
⬇ Lượt tải: 31
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 368
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 11
👁 Lượt xem: 564
⬇ Lượt tải: 19
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 18
👁 Lượt xem: 498
⬇ Lượt tải: 21