Mã tài liệu: 249413
Số trang: 10
Định dạng: doc
Dung lượng file: 67 Kb
Chuyên mục: Triết học
Lý thuyết giá trị lao động của W Petty A Smith Ricado - Sự kế thừa & phát triển của Mác
LỜI MỞ ĐẦU
Môn kinh tế chính trị tư sản bắt đầu từ CN trọng thương. Sự phát triển của CNTB đã làm cho những luận điểm của CN trọng thương trở nên lỗi thời. Trọng tâm chú ý của các nhà kinh tế học ngày càng chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Chủ nghĩa trọng thương nhường chỗ cho chủ nghĩa trọng nông. Mặc dù là giai đoạn cao hơn so với chủ nghĩa trọng thương, nhưng chủ nghĩa trọng nông còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chỉ giới hạn ở lĩnh vực sản xuất trong nông nghiệp và chưa có khái niệm đúng đắn về giá trị. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho kinh tế học chính trị tư sản cổ điển mà tiêu biểu là kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh mở đầu từ W. Petty (1622-1687) đến A. Smith (1723-1790) và kết thúc ở D. Ricardo (1772-1823). W. Petty là một trong những người sáng lập ra học thuyết kinh tế cổ điển ở Anh. A. Smith là nhà kinh tế của thời kỳ công trường thủ công của CNTB, còn Ricardo là nhà kinh tế của thời kỳ đại công nghiệp cơ khí của CNTB, là đỉnh cao lý luận của kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. W. Petty, A. Smith và Ricardo là những đại biểu lớn nhất cho kinh tế học chính trị cổ điển Anh. Lý thuyết giá trị lao động là một trong những lý thuyết quan trọng của các nhà kinh tế tư sản cổ điển Anh. Qua đánh giá các điểm giá trị khoa học và hạn chế của W. Petty, A. Smith và Ricardo trong lý luận giá trị lao động để ta thấy được Mác đã kế thừa và phát triển tư tưởng của họ như thế nào.
NỘI DUNG
1. W. Petty
W. Petty có công lao trong việc nêu ra nguyên lý giá trị lao động. Trong tác phẩm “Bàn về thuế khóa và lệ phí” viết năm 1662 khi nghiên cứu về giá cả thì Petty đã chia thành hai hình thức giá cả: giá cả chính trị và giá cả tự nhiên.
Ông viết: một người nào đó trong thời gian lao động khai thác được một ounce bạc và cùng thời gian đó sản xuất được một barrel lúa mì, thì một ounce bạc là giá cả tự nhiên của một barrel lúa mì. Nếu nhờ những mỏ mới giàu quặng hơn, nên cùng một thời gian lao động đó, bây giờ khai thác được 2 ounce bạc thì 2 ounce bạc là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mì. Như vậy, ông đi đến kết luận giá cả tự nhiên phản ánh lượng lao động hao phí của con người trong việc sản xuất ra sản phẩm sẽ quyết định giá trị của sản phẩm. Hay ông khẳng định lao động là cội nguồn của giá trị.
Về giá cả chính trị, W. Petty cho rằng nó là một loại đặc biệt của giá cả tự nhiên. Giá cả chính trị phụ thuộc một phần vào lao động hao phí làm ra sản phẩm nhưng mặt khác nó còn phụ thuộc vào những ý chí về mặt chính trị và phụ thuộc vào tình trạng thực tế của xã hội. Vì vậy, giá cả chính trị quyết định giá cả thị trường của sản phẩm. Khi nghiên cứu về lý luận giá trị thì Petty cũng rút ra kết luận thời gian lao động và năng suất lao động có ảnh hưởng đến mức giá cả của hàng hóa. Petty là người đầu tiên phát hiện ra mối quan hệ giữa năng suất lao động và lượng giá trị của mỗi sản phẩm. W. Petty đặt vấn đề nghiên cứu lao động giản đơn và lao động phức tạp, so sánh lao động trong thời gian dài, lấy năng suất lao động trung bình trong nhiều năm để loại trừ tình trạng ngẫu nhiên.
Từ đó có thể khẳng định W.Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết giá trị lao động.
Tuy nhiên lý thuyết giá trị lao động của W. Petty còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa trọng thương. Ông chưa phân biệt được sự khác nhau giữa các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi và giá cả của sản phẩm. Khi nghiên cứu về giá trị thì Petty đã gắn lao động sản xuất ra hàng hóa với lao động khai thác ra kim loại quý là bạc và vàng. Từ đó ông cho rằng muốn xác định giá trị của các hàng hóa khác nhau thì cần phải quy đổi lượng lao động hao phí làm ra nó với lượng lao động hao phí để làm ra một đơn vị vàng hoặc bạc. Đồng thời ông chưa phân biệt được lao động tạo ra giá trị và lao động tạo ra giá trị sử dụng. Từ đó ông đưa ra câu nói nổi tiếng: “lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải”. Về phương diện của cải vật chất đó là công lao to lớn của ông. Nhưng ông lại xa rời tư tưởng giá trị – lao động khi kết luận lao động và đất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi vật phẩm, tức là cả lao động và đất đai là nguồn gốc của giá trị. Điều này là sai, đất đai hay tư liệu sản xuất đóng vai trò quan trọng nhưng nó không phải là nguồn gốc của giá trị.
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 8
👁 Lượt xem: 386
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 551
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 11
👁 Lượt xem: 4771
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 20
👁 Lượt xem: 2221
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 124
👁 Lượt xem: 805
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 14
👁 Lượt xem: 368
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 26
👁 Lượt xem: 461
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 11
👁 Lượt xem: 644
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 25
👁 Lượt xem: 1672
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 25
👁 Lượt xem: 441
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 25
👁 Lượt xem: 229
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 5
👁 Lượt xem: 346
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 10
👁 Lượt xem: 2423
⬇ Lượt tải: 23