Mã tài liệu: 297951
Số trang: 93
Định dạng: pdf
Dung lượng file: 795 Kb
Chuyên mục: Tâm lý học
MS: LVTLH007
SỐ TRANG: 93
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC
NĂM: 2008
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về lý luận:
Khi đối diện với những sự vật, hiện tượng, con người luôn tìm cách
trả lời câu hỏi “đó là cái gì”. Bất kỳ một hiện tượng mới nào cũng đều
làm con người quan tâm và lý giải theo một cách thức nào đó. Khi con
người nhận thức rõ ràng về một vấn đề, về một sự kiện nào đó, con người
sẽ có thái độ phù hợp và đúng mực. Từ nhận thức và thái độ đúng đó,
con người sẽ có hành vi tương thích. Nghiên cứu nhận thức và thái độ
của một cá nhân hay của một cộng đồng về một vấn đề nào đó sẽ giúp
chủ thể nghiên cứu có cái nhìn rõ ràng hơn về đối tượng nghiên cứu.
Người công nhân trong giai đoạn mới đang được tiếp cận với nhiều
khuynh hướng tác động khác nhau, nếu nhận thức được hình thành nhanh
chóng dựa trên những yêu cầu khách quan và thái độ của người lao động
được xác lập một cách đúng đắn về các khuynh hướng mới thì người lao
động sẽ tự tin và hăng hái hơn khi đối diện với các khuynh hướng ấy. Tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp là một dạng tương tác mới có thể làm
người lao động đón nhận hoặc phản đối tùy thuộc vào nhận thức của họ
như thế nào. Nhận thức đúng về tư vấn tâm lý sẽ làm người lao động dễ
dàng hình thành thói quen tư vấn tâm lý, xem tư vấn như một dịch vụ
bình thường có thể mang lại cho họ nhiều điều bổ ích.
1.2. Về thực tiễn:
- Nhiều nghiên cứu về tư vấn tâm lý đã được thực hiện trên nhiều
mức độ và qui mô khác nhau, trong đó có công trình “Nghiên cứu thực
trạng tham vấn tâm lý tại TP. HCM” do nhóm của Thạc sĩ Đỗ Văn Bình
và tiến sĩ Trần Thị Giòng thực hiện năm 2003. Kết quả của nghiên cứu
này cho thấy hiện nay nhu cầu tư vấn tâm lý đã có chiều hướng tăng lên,
mỗi trung tâm tư vấn tâm lý bình thường có khoảng 360 đến 650 thân
chủ/tuần.
- Đối với mỗi cá nhân, khi xã hội phát triển, cuộc sống ở các đô thị
lớn càng trở nên sôi động, với các hình thức sinh hoạt đa dạng, trong
những “căn nhà ống” đa chức năng, với sự bùng nổ thông tin và các dịch
vụ ảo hình thành mạnh mẽ, khả năng làm việc của con người được phát
huy tối đa mà có rất ít thời gian bồi dưỡng sức lao động để tái sản xuất
thì nguy cơ bị hội chứng stress, nhiễu tâm, rối loạn tâm thần ngày càng
tăng cao. Cơn lốc của nền kinh tế thị trường “đổ bộ” vào mọi ngõ ngách,
len lỏi trong mỗi gia đình đã tạo ra những cú sốc cho các quan hệ. Riêng
mỗi gia đình, với những giá trị truyền thống bị biến đổi, đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nhân cách, nhận thức, lối sống giữa các thế hệ trong
gia đình. Xung đột nảy sinh, làm tắc nghẽn các giao lưu tình cảm ở gia
đình, tiêu biểu nhất là xung đột vợ - chồng, xung đột cha mẹ - con cái,
làm nảy sinh nhiều vấn đề về mặt tâm lý, xã hội mà quan trọng nhất là
vấn đề hình thành nhân cách con người.
- Đối với các doanh nghiệp, từ khi Nhà nước mở cửa, thu hút đầu tư
nước ngoài, Luật Doanh nghiệp ra đời làm cho nền kinh tế thị trường
phát triển, kéo theo sự phát triển vũ bão của các doanh nghiệp: từ doanh
nghiệp nhà nước, công ty liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn và cả
các công ty nước ngoài. Cả nước hiện có hơn 208.000 doanh nghiệp, là
một bức tranh sinh động về sức bật kinh tế của Việt Nam. Nước ta đang
trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, chuyển đổi từ
nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Quá trình
chuyển đổi đó đã tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển
mạnh mẽ, đem lại những thay đổi đáng kể trong đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, nền kinh tế
thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của nó, gây nên những khó khăn,
thách thức lớn cho sự phát triển xã hội. Cơ chế thị trường dẫn đến sự
phân hoá xã hội, đặc biệt về mặt thu nhập, tạo ra sự chênh lệch giữa giàu
nghèo, tệ nạn xã hội, thất nghiệp ngày càng gia tăng, sự du nhập các
luồng văn hóa không lành mạnh làm thay đổi không ít những quan niệm,
chuẩn mực trong xã hội và làm lung lay các giá trị đạo đức, truyền thống
tốt đẹp,… Tất cả đều góp phần tạo nên mâu thuẫn, xung đột và tác động
tiêu cực đến đời sống của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Vì vậy, tư vấn
là một loại hình dịch vụ đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của xã hội và con người Việt
Nam, với những thói quen sống, đặc điểm tâm lý của một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, đã xây dựng một mối quan hệ hạn hẹp, co cụm sau
lũy tre làng, nền kinh tế bao cấp trì trệ và nặng hành chánh, bệnh thành
tích,… cùng biết bao những lề thói trong hành xử, trong văn hóa, phong
cách sống và cả những kỹ năng làm việc…
Sự khác biệt giữa môi trường làm việc đầy năng động, sáng tạo, luôn
biến ảo và thay đổi với một bên là sự trì trệ, bảo thủ và cục bộ về cơ cấu
tổ chức, thói quen làm việc, đặc tính tâm lý… đã làm cho mỗi cá nhân
trong tổ chức doanh nghiệp phải đối đầu với một thực tế như là “cú sốc
tương lai”.
Người ta chưa quen làm việc dưới áp lực cao, làm việc theo nhóm,
theo dự án, chưa quen làm việc theo những nguyên tắc dây chuyền,
chuyên môn hóa cao. Vì vậy, con người nhanh chóng mệt mỏi, căng
thẳng, vi phạm những nguyên tắc an toàn lao động, tác phong làm việc
không chuyên nghiệp, ứng xử không phù hợp, không có kỹ năng. Con
người cảm thấy bị stress, và như thế, hàng loạt những vấn đề mâu thuẫn
trong đội ngũ nhân sự ở các doanh nghiệp đã xảy ra. Đó là một vấn đề
gây tổn thất lớn cho các doanh nghiệp, cho sự phát triển và hội nhập của
doanh nghiệp Việt Nam với thế giới.
Qua nghiên cứu thực trạng về nhu cầu tư vấn tâm lý và chăm sóc đời
sống tinh thần cho người lao động do Hội Tâm lý Thành phố phối hợp
với Công ty Hồn Việt thực hiện tháng 3-2006, khảo sát trên 531 người
lao động và 28 nhà doanh nghiệp cho thấy:
+ Trong 531 người lao động có 253 người (chiếm 48%) cho rằng vai
trò của nhà tâm lý trong doanh nghiệp là rất cần thiết và 234 người
(chiếm 44%) cho là cần thiết.
+ Trong 28 nhà doanh nghiệp có 9 người (chiếm 32%) cho là rất cần
thiết và 16 người (chiếm 57%) cho là cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề nóng bỏng trước thực tế trên, muốn tìm
hiểu người lao động hiện nay có suy nghĩ như thế nào về dịch vụ tư vấn,
họ có sẵn sàng đón nhận dịch vụ tư vấn chưa, người nghiên cứu chọn
hướng nghiên cứu với đề tài: “Nhận thức và thái độ của người lao động
về vấn đề tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp”
2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp các nhà quản lý doanh nghiệp có cơ sở để hình thành các quyết
định, các phương pháp chăm sóc tinh thần cho người lao động.
- Thực hiện áp dụng mở rộng các hình thức tư vấn tâm lý cho người
lao động ở các doanh nghiệp.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề về lý luận nhận thức, thái độ của người lao
động trên những mức độ nhất định.
- Làm rõ khái niệm tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
- Nghiên cứu thực trạng nhận thức, thái độ của người lao động về tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và hình thành
thái độ tích cực để người lao động ủng hộ việc thực hiện tư vấn tâm lý
trong doanh nghiệp, các biện pháp phát triển tư vấn tâm lý trong doanh
nghiệp.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu:
- 239 người lao động làm việc tại các doanh nghiệp (175 nghiên cứu
thực trạng, 64 thực nghiệm)
- 80 nhà quản lý các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh (20
nghiên cứu thực trạng, và 60 thực nghiệm)
4.2. Đối tượng nghiên cứu:
Nhận thức và thái độ của người lao động về nội dung, hình thức tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống, logic
- Phương pháp tiếp cận lịch sử
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Nghiên cứu tài liệu
- Điều tra bằng An-ket
- Phỏng vấn
- Thử nghiệm tư vấn trong doanh nghiệp để so sánh sự khác biệt giữa
nhận thức, thái độ của người lao động trước và sau khi được thụ hưởng
dịch vụ tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
- Toán thống kê
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn:
Nghiên cứu nhận thức và thái độ của người lao động về công việc tư
vấn tâm lý như một dịch vụ không chuyên tại các doanh nghiệp.
6.2. Phạm vi: Nghiên cứu trên địa bàn TP. HCM.
7. Giả thuyết nghiên cứu
7.1. Người lao động tại các doanh nghiệp có nhận thức và thái độ chưa rõ
ràng về tư vấn tâm lý, họ chỉ mới biết đơn giản, chưa hiểu rõ về dịch vụ
này.
7.2. Sau khi tổ chức dịch vụ tư vấn tâm lý ở doanh nghiệp, nhận thức và
thái độ của người lao động về dịch vụ này có thay đổi theo hướng tích
cực.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận
- Chương 2: Giới thiệu cách thức tổ chức và nghiên cứu nhận thức và
thái độ của người lao động về tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
- Chương 3: Thực trạng nhận thức và thái độ của người lao động về tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 98
👁 Lượt xem: 752
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 23
👁 Lượt xem: 484
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 120
👁 Lượt xem: 690
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 118
👁 Lượt xem: 724
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 25
👁 Lượt xem: 2936
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 683
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 34
👁 Lượt xem: 702
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 62
👁 Lượt xem: 781
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 5
👁 Lượt xem: 2248
⬇ Lượt tải: 20
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 93
👁 Lượt xem: 594
⬇ Lượt tải: 16