Tìm tài liệu

Cau quan he co tu la trong tieng Viet

Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt

Upload bởi: ngoac82

Mã tài liệu: 297445

Số trang: 146

Định dạng: pdf

Dung lượng file: 834 Kb

Chuyên mục: Ngôn ngữ học

Info

MS:LVNNH002

SỐ TRANG: 146

TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC

NĂM: 2009

DẪN NHẬP

0.1 . Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu

Ngôn ngữ là một thành tựu vĩ đại nhất của loài người. Mỗi ngôn ngữ

thể hiện trong nó không chỉ là bề dày lịch sử, nền văn hóa, mà cả trình độ văn

minh của một quốc gia, một dân tộc. Ngôn ngữ học, ngành khoa học nghiên

cứu về ngôn ngữ, có một vị trí rất quan trọng trong các khoa học xã hội và

nhân văn. Nó giúp chúng ta tìm hiểu về ngôn ngữ nói chung và đặc trưng của

các ngôn ngữ cụ thể. Việc nghiên cứu ngôn ngữ cũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ

cách nhận thức thế giới, cách truyền đạt tri thức và cách giao tiếp của các

cộng đồng ngôn ngữ. Hơn thế, nghiên cứu tiếng mẹ đẻ còn góp phần giữ gìn,

bổ sung, trau dồi cho ngôn ngữ của mỗi người ngày càng trong sáng hơn,

hoàn thiện hơn.

Hiểu được tầm quan trọng của việc nghiên cứu ngôn ngữ, yêu quý và

trân trọng tiếng mẹ đẻ, và suy nghĩ rằng nghiên cứu sâu tiếng Việt trên một

bình diện nào đó cũng đều rất quan trọng, chúng tôi chọn nghiên cứu về câu

quan hệ trong tiếng Việt. Trong ngữ pháp truyền thống, các nhà nghiên cứu

theo khuynh hướng cấu trúc chủ yếu khảo sát câu về cấu trúc hình thức. Gần

đây khuynh hướng ngữ pháp chức năng đã đi sâu tìm hiểu câu từ góc độ ngữ

nghĩa của câu, chẳng hạn dựa trên sự hình thành các quá trình (Process) để

phân ra các loại câu như: các quá trình vật chất (các quá trình hành động),

các quá trình tinh thần (các quá trình cảm giác) và quá trình quan hệ (các quá

trình tồn tại). Trong các loại câu đó thì câu quan hệ là loại câu khá đa dạng,

phong phú về ngữ nghĩa và được dùng phổ biến trong tiếng Việt cũng như

trong các ngôn ngữ khác. Từ trước tới nay, một số công trình về ngữ pháp

tiếng Việt có đề cập đến câu quan hệ nhưng có lẽ chưa có công trình nào

nghiên cứu sâu và cụ thể vào một khía cạnh nào đó của câu quan hệ. Chúng

tôi nhận thấy vấn đề “Câu quan hệ trong tiếng Việt” đặc biệt là “câu quan hệ

có từ “là” trong tiếng Việt” là một vấn đề lý thú và bổ ích nên quyết định

chọn làm đề tài luận văn.

Để tiện cho việc khảo sát, chúng tôi dùng các ngữ liệu trên ngôn ngữ

viết thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau như phong cách khoa học,

phong cách chính luận, phong cách hành chính, phong cách ngôn ngữ văn

chương.

Luận văn khảo sát câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm các

mục đích sau đây :

- Tiếp xúc với các vấn đề lý thuyết về ngữ nghĩa học, về ngữ pháp chức

năng (đặc biệt là quan niệm của M.A.K. Halliday, S.C. Dik), vận dụng vào

việc khảo sát, lý giải một loại câu quan hệ trong tiếng Việt.

- Kết quả khảo sát, phân tích loại câu quan hệ có từ “là”trong tiếng Việt

có thể có những đóng góp thiết thực vào thực tiễn nói, viết và thực tiễn giảng

dạy tiếng Việt.

0.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Như trên đã nói, có rất nhiều công trình nghiên cứu về các kiểu quá

trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ, trong đó có quá trình quan hệ.

Ở mỗi công trình các tác giả có thể có những cách tiếp cận khác nhau. Luận

văn không có tham vọng bao quát đầy đủ quá trình nghiên cứu về câu quan hệ

trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Thông qua tìm hiểu

của bản thân, chúng tôi chỉ cố gắng điểm qua tình hình nghiên cứu câu quan

hệ của những tác giả tiêu biểu trên thế giới và ở Việt Nam.

Trên thế giới:

Các kiểu quá trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ được rất

nhiều nhà ngôn ngữ trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Có nhiều cách tiếp

cận các quá trình này với những quan điểm khác nhau. Công trình nghiên cứu

được xem là đầy đủ, xứng đáng được xem là một cuốn sách giáo khoa cho

những ai muốn tìm hiểu về các kiểu quá trình trong hệ thống ngôn ngữ, là của

M.A.K.Halliday. Đó là cuốn “Dẫn luận Ngữ pháp chức năng”. Các quá trình

mà M.A.K.Halliday miêu tả chủ yếu là trong tiếng Anh, nhưng xét thấy có

nhiều điểm có thể vận dụng vào tiếng Việt nên luận văn của chúng tôi áp

dụng những mô hình lý thuyết mà ông đưa ra để giải thích và nghiên cứu về

câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt. M.A.K.Halliday khái quát về quá

trình quan hệ (Relational processes) như sau: “để liên hệ mảng này với mảng

kia của thế giới kinh nghiệm: cái này giống cái kia, cái này là một loại của

cái kia là quá trình quan hệ” [24, 206]. Hệ thống các quá trình quan hệ trong

tiếng Anh của M.A.K. Halliday hoạt động theo ba kiểu chính là:

Quan hệ sâu (intensive): ‘x is a’  x là a

Quan hệ chu cảnh (circumstantial): ‘x is at a’ x ở a

Quan hệ sở hữu (possessive): ‘x has a’  x có a

Mỗi kiểu như vậy xuất hiện dưới hai phương thức tách biệt mà Halliday

gọi là phương thức đồng nhất (identifying) và phương thức định tính

(attributive). Như thế, chiếu theo phương thức quan hệ và kiểu quan hệ mà

ông đưa ra, sẽ có sáu cặp phạm trù quan hệ tương ứng. Những đóng góp của

Halliday về các quá trình chuyển tác có giá trị rất lớn với tiếng bản xứ (Anh)

và cả với các ngôn ngữ khác trên thế giới, chẳng hạn tiếng Việt.

Cùng với M.A.K. Halliday, các nhà chức năng luận khác như Fawcett,

V.Z. Panfilov, C. Fillmore, Simon C.Dik … cũng đề cập đến câu quan hệ hay

loại câu tương tự câu quan hệ.

Nhà ngôn ngữ học Simon C. Dik trong Functional Grammar (Ngữ pháp

chức năng-1978), đã dùng thuật ngữ “sự tình” (cái có thể là tình huống trong

một thế giới nào đó). S.C. Dik dựa trên hai thông số cơ bản là tính động

(Dynamism) và tính có chủ ý (Control) để xác lập ra bốn loại hình sự tình:

hành động, quá trình, trạng thái, tư thế (xem bảng trình bày các sự tình của

S.C. Dik) trong đó không có loại hình sự tình quan hệ. Đến năm 1989, S.C.

Dik đưa thêm Tính thành quả (Telicity) vào bộ thông số và cho ra một bảng

phân loại gồm sáu sự tình: Tư thế (Position), Trạng thái (State), Hành động

hoàn thành (Accomplishment), Hành động diễn tiến (Activity), Quá trình biến

đổi (Change), Quá trình biến động (Dynamism). Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại

những khiếm khuyết như Siewierska (1991) thừa nhận: “Những loại hình sự

thể lọt ra ngoài bảng phân chia loại nhỏ này thì không được nêu tên gọi.”

[54, số 10, tr.14]. Diệp Quang Ban cho rằng ngoài lĩnh vực các quan hệ, cách

phân loại sự thể của S.C. Dik khá thỏa đáng nhưng rất khó để tìm kiếm được

một giải pháp khả thi mới để kết hợp cả hai cách phân loại của S.C. Dik và

M.A.K. Halliday.

Bảng trình bày các loại sự tình của S.C. Dik.(nguồn NPCN,tr.50)

Sự tình

+ Động

Sự kiện

-Động

Tình huống

+ Chủ ý Hành động Tư thế

- Chủ ý Quá trình Trạng thái

Sự tình quan hệ ở đây được S.C. Dik xem là một thể loại của sự tình

trạng thái và cũng dựa trên những phân biệt trong các chỉ định của kết cấu vị

ngữ hạt nhân.

Ví dụ:

(1) The substance is red .(trạng thái)

(2) The table stood in the corner. (trạng thái) [-Động,-Chủ ý]

(3) John tasted the wine in the soup. (trạng thái)

Theo S.C. Dik “ Nếu một kết cấu vị ngữ trạng thái chỉ có một tham tố,

tôi cho rằng tham tố đó có chức năng nghĩa là zero. Tôi thấy không có lý do

gì để quy gán bất kỳ một chức năng ngữ nghĩa cụ thể nào cho các tham tố

như thế.

Các tham tố kết cấu vị ngữ trạng thái hai vai thường có hai tham tố

chức năng zero, và thậm chí có thể có sự tình trạng thái ba vai với ba tham tố

chức năng zero. Tuy nhiên, tham tố thứ hai trong các kết cấu vị ngữ trạng

thái cũng có thể có chức năng thời gian hay vị trí.” [29; 54]

Ví dụ:

(4) Rose ф are red.

(5) That man ф is the killer.  ф chức năng nghĩa là zero.

(6) The cup ф is on the table.

Theo nhận định của Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp

chức năng thì tiêu chí (+Động, - Động) và (+Chủ ý, -Chủ ý) của Simon

C.Dik rất quan trọng đối với nhiều loại ngôn ngữ trên thế giới. S.C.Dik đã

đưa ra được một lược đồ khá cơ bản, thế nhưng sự đơn giản ấy lại làm cho

lược đồ của ông trở nên khó ứng dụng, chẳng hạn ô tư thế (+chủ ý,-động)

không cân bằng với ba ô còn lại. Các vị từ làm hạt nhân cho loại câu này như

đứng, ngồi, nằm, quỳ… có thể đếm trên đầu ngón tay, theo thống kê không

tới 0,2% trong số các vị từ làm hạt nhân cho các loại câu nằm ở ô hành động,

trạng thái, quá trình. Không chỉ vậy, lược đồ của Dik khó có thể chia ra chi

tiết hơn nữa, chẳng hạn không thể xếp các câu tồn tại, câu định vị (ví dụ như

câu: “Cá nằm trên thớt” không được xếp vào ô loại tư thế vì thiếu tiêu chí (+

chủ động).), hay câu đẳng thức .v.v… không xếp vào ô nào trong bốn ô phân

loại các loại sự tình của Dik). Như vậy, không thể dựa vào bảng phân loại sự

tình của S.C. Dik để miêu tả câu quan hệ tiếng Việt.

John Lyons, nhà ngôn ngữ học truyền thống ở Anh, tiếp cận vấn đề từ

quan điểm logic. Ông cũng đã đưa ra các kết cấu tồn tại, định vị và sở hữu

tương tự thuật ngữ “các quá trình quan hệ” mà luận văn đang đề cập. John

Lyons cho rằng trong rất nhiều ngôn ngữ có những tương tự hiển nhiên giữa

những câu định vị và câu tồn tại, chẳng hạn:

Ví dụ: Tiếng Anh

(7) Coffee will be here in a moment. không có sự khác nhau

(7’) There will be coffee here in a moment. về nghĩa giữa (7) và (7’)

John Lyons, tiếp cận vấn đề từ quan điểm logic học, với các câu tồn tại

câu định vị, và câu sở hữu, ông phân ra làm hai xu hướng “vị ngữ tính”

(tương đương với câu tả trong tiếng Việt) và “vị ngữ danh” (tương đương với

câu luận trong tiếng Việt). Tuy nhiên, vì sự phân tích cú pháp của các câu có

“vị ngữ danh” phức tạp nên ông quyết định bỏ qua tất cả những điểm khác

nhau giữa các tiểu loại và phân tích tất cả như những “vị ngữ danh từ”.

Đặc biệt, trong Nhập môn ngôn ngữ học ông nói nhiều đến “động từ là”

và “động từ có”, ông cho rằng đó là những câu tồn tại, định vị và sở hữu có

quan hệ qua lại trong nhiều ngôn ngữ “…cái thường được gọi là “động từ

là”, và “động từ có” trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác là một yếu tố

ngữ pháp, vô nghĩa, chỉ dùng để “mang” các dấu hiệu về thời, thức, thể ở cấu

trúc nổi của câu.”

Theo mô hình của Fawcett, giao điểm của kiểu quá trình và kiểu đương

thể cho ra 12 kiểu quá trình quan hệ trong tiếng Anh.

Mô hình các quá trình quan hệ trong tiếng Anh của Fawcett: Các hệ thống

ban đầu. [40, 273]

Hoàng Văn Vân cho rằng “ … đây là một mô hình chi tiết và đã đi sâu

vào việc tìm hiểu bản chất của quá trình quan hệ trong tiếng Anh … Mô hình

của Fawcett quan tâm đến những kiểu quá trình cụ thể hơn là đến sự khái

quát hóa các quá trình quan hệ”. [40, 276]. Cũng theo Hoàng Văn Vân, mô

hình các quá trình quan hệ của Fawcett đã không thể hiện được sự khái quát

hóa các quá trình quan hệ; đồng thời trong công trình nghiên cứu về các quá

trình quan hệ của Fawcett cũng không hề đề cập đến hệ thống Dạng (là một

Định tính

Đương thể đơn

Sở hữu

Định vị

Kiểu đương thể

Đương thể bị tác động

Đương thể tác nhân

Đương thể thứ ba Đương thể thứ ba

Kiểu quá trình

hệ thống mà chính Fawcett khẳng định không thể thiếu khi nghiên cứu các

công trình ngữ pháp) đồng thời “… nếu chấp nhận một mô hình như vậy sẽ

làm cho vấn đề trở nên phức tạp vì người ta phải xây dựng lại các tiêu chí

định nghĩa” [40, 277] cho tất cả các quá trình trong hệ thống chuyển tác của

ngôn ngữ.

Từ việc tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu

theo hướng chức năng luận, chúng tôi nhận thấy mô hình miêu tả quá trình

chuyển tác quan hệ của M.A.K. Halliday là mô hình lý thuyết phù hợp nhất để

miêu tả câu quan hệ tiếng Việt.

Tại Việt Nam

Đã có khá nhiều công trình ngữ pháp đề cập trực tiếp đến câu quan hệ

như Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân, Bùi Minh Toán,

Nguyễn Thị Lan Anh, Đỗ Thị Kim Liên … Ngoài ra còn có những công trình

nghiên cứu về những kiểu câu tương tự câu quan hệ như câu tả, câu luận,

trong sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việ t Nam

(1983), hay những những động từ chỉ các trạng thái tâm lý hướng tới đối

tượng, biểu thị trạng thái tồn tại, sở hữu có thể có thành tố phụ sau là một

danh từ, cụm danh từ chỉ đối tượng như : có, còn, xuất hiện, diễn ra … trong

Ngữ pháp Việt Nam của Nguyễn Thị Ly Kha, hay những bài viết cùng bàn về

cấu trúc “Danh là Danh” và các mối quan hệ của nó của Lê Xuân Thại,

Nguyễn Đức Dân, Trần Ngọc Thêm, v.v… Từ những năm 2000 trở lại đây,

cũng có một số bài viết đề cập đến một số tiểu loại của câu quan hệ trong

tiếng Việt trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, của các tác giả Nguyễn Thị

Thanh Phương, Nguyễn Thế Lịch …, hoặc so sánh đối chiếu câu quan hệ

tiếng Việt với tiếng Anh của Hoàng Tuyết Minh nhằm tìm ra một số lỗi người

Việt thường mắc khi sử dụng động từ quan hệ tiếng Anh …

Cao Xuân Hạo kế thừa lược đồ phân loại các loại sự tình cơ bản của

S.C. Dik nhưng ông xếp loại câu quan hệ và câu trạng thái vào một loại câu,

đó là câu chỉ tình hình : “Trong các câu chỉ tình hình có thể phân biệt câu chỉ

trạng thái với câu chỉ quan hệ. Trạng thái là một tình hình có mặt trong bản

thân chủ thể (thực thể mang nó, hay ở “trong trạng thái” đó). Quan hệ là một

tình hình mà nội dung là một cái gì ở giữa hai sự vật, dù đó là một sự tiếp

xúc, một khoảng cách, một mối dây nhân quả, hay một sự so sánh.” [13, 430].

Cao Xuân Hạo đưa thêm sự tình tồn tại (hiện hữu), mà S.C.Dik còn thiếu, vào

hàng sự tình cơ bản bậc một ngang hàng với biến cố và tình hình. Cao Xuân

Hạo đã thay ô sự tình tư thế (bậc hai) của S.C. Dik bằng loại quan hệ và xem

vị trí của nó tương đương với vị trí của sự tình trạng thái trong những sự tình

tĩnh [-Động].

Theo khảo sát trên tư liệu tiếng Việt của tác giả Bùi Minh Toán và Lê

Thị Lan Anh thì bên cạnh những nét cơ bản phù hợp hệ thống các quá trình

mà M.A.K. Halliday nghiên cứu “…có thể nhận thấy chỉ có một số kiểu sự

tình quan hệ là được tổ chức theo cả hai phương thức đồng nhất và định tính”

[2, 1], chẳng hạn quan hệ cảnh huống (chỉ có loại quan hệ vị trí và quan hệ

nguyên liệu là tổ chức theo hai phương thức đồng nhất và định tính; còn các

quan hệ cảnh huống khác như: quan hệ mục đích, quan hệ so sánh, quan hệ

tương hỗ, quan hệ nguyên nhân, quan hệ nguồn gốc, quan hệ vai diễn thì

không tồn tại cả hai phương thức trên.), hay quan hệ sở hữu (chỉ tổ chức theo

một phương thức định tính). Trong bài viết “Câu quan hệ tiếng Việt: sự hiện

thực hóa các thành tố của sự tình quan hệ ”, tác giả Bùi Minh Toán và Lê Thị

Lan Anh đã đưa ra 13 loại sự tình quan hệ trong tiếng Việt theo quan niệm

của M.A.K. Halliday. Tiếc là bài viết này không coi “câu quan hệ có từ là”

như là một đối tượng nghiên cứu mà chỉ nói chung chung đến các loại sự tình

quan hệ trong tiếng Việt.

Sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam cũng

nhắc đến câu quan hệ nhưng dưới thuật ngữ câu tả và câu luận. Đây cũng

chính là hai loại câu chính của câu đơn hai thành phần được làm thành từ một

cụm chủ ngữ (C)- vị ngữ (V), chủ ngữ và vị ngữ có quan hệ qua lại với nhau.

Câu tả là loại câu để biểu thị một quá trình miêu tả đối tượng trong hoạt

động, trạng thái hay tính chất của nó. Câu tả có nghĩa về trạng thái tồn tại của

sự vật (câu tồn tại) có phần đề do từ loại danh từ, phần thuyết do tiểu loại

động từ tồn tại đảm nhận (có, còn, hết…), đây là loại câu khá đặc biệt, tương

đương câu quan hệ mang đặc điểm “không có từ là”. Vì ở luận văn này chúng

tôi nghiên cứu loại “câu quan hệ sâu có từ là” trong tiếng Việt, nên chúng tôi

sẽ nhắc nhiều đến loại câu luận là loại câu tương đương câu quan hệ đặc biệt

“có dùng động từ là”.

Câu luận là kiểu câu biểu thị một quá trình tư duy và thông báo mang

tính suy luận, phán đoán. Nó có thể đưa ra một nhận xét, một ý kiến đánh giá

và đôi khi mang tính triết lý. Vị từ “là” trong câu luận có thể coi là động từ

mang trọng trách đặc biệt, làm “chính tố”, “động từ thuyết tính của câu luận”.

Ví dụ:

(8) Tổ chức là biện pháp cơ bản để thực hiện chính sách . (mô hình A là B)

A B

(9) Ruộng rẫy là chiến trường. (mô hình A=B)

A B

Câu luận trong tiếng Việt là loại câu tương đương “câu quan hệ sâu có

từ là”. Đó là một loại câu có cách thể hiện khá đa dạng.

Ví dụ: Câu luận “A là B”

(10) Cuốc cày là vũ khí. [39, 185]  có thể thay đổi vị trí A và B

[57, 185]

(11) Nguyên tắc là nguyên tắc. [39, 185]  có thể thay đổi vị trí A và B.

(12) Hà là một cán bộ nhà nước.[39, 183] không thể thay đổi vị trí A và B

Như trên có thể thấy loại câu luận có mô hình “A là B” tương đương

câu quan hệ sâu đồng nhất và định tính,“là” ở câu luận đóng vai trò là động từ

(vị từ) chứ không phải trợ từ.

Diệp Quang Ban đã đưa ra cách phân loại chi tiết và khá bao quát cho

các loại câu tồn tại. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm ấy, cách phân loại của ông

không đưa ra được “một mô hình toàn diện nhất để giải thích các kiểu quá

trình quan hệ.” tức là phải đáp ứng “… ba điều kiện: (i) nó phải xem ‘quan

hệ’ như là một đặc điểm của cả cú chứ không phải chỉ là một đặc điểm của

động từ; nghĩa là, nó phải được trừu tương hóa để có đủ sức giải thích cho

những đặc điểm cụ thể của các quá trình quan hệ trong tiếng Việt; và (ii) nó

phải được kiểm chứng bằng sự phù hợp của cả hai tiêu chí ngữ nghĩa và ngữ

pháp-từ vựng’’[40, 271].

Lê Thị Lan Anh bàn nhiều về sự tình quan hệ trong bài viết “Đặc trưng

ngữ nghĩa của sự tình quan hệ so sánh trong tiếng Việt”. Tác giả đã đưa ra vị

tố biểu thị quan hệ so sánh trong tiếng Việt gồm: như, như thể, in như, như,

giống, khác, khác biệt, bằng, hơn, kém, tựa, hệt, sánh, ví, tày ... và tổ hợp của

các vị tố này: như là, hệt như, giống như là, y hệt như là …, đồng thời đưa ra

khá đầy đủ những ví dụ để phân tích, chứng minh làm nổi bật các đặc trưng

ngữ nghĩa của sự tình so sánh trong tiếng Việt. Tuy nhiên bài viết không nhắc

đến vị từ “là”, trong khi “là” cũng có thể là một vị từ so sánh trong một số

trường hợp. Bài “Phương thức định tính và đồng nhất trong sự tình quan hệ

thâm nhập” của Lê Thị Lan Anh dùng thuật ngữ “thâm nhập” thay vì thuật

ngữ “sâu” của M.A.K. Halliday, nhưng về cơ bản cũng dựa trên mô hình “x

is a”, dựa trên cơ sở lý thuyết của M.A.K. Halliday để xem xét loại sự tình

quan hệ thâm nhập ở hai phương thức: định tính và đồng nhất trong tiếng Việt

“Đồng nhất thể và định tính là hai phương thức quan hệ hoàn toàn khác

nhau, mỗi phương thức sẽ cho chúng ta một loại sự tình riêng với những đặc

trưng ngữ pháp, ngữ nghĩa đặc thù của nó” [54,số 2, tr.62].

Theo tác giả, trong tiếng Việt, các vị tố : là, biểu hiện, biểu đạt, minh

họa, thể hiện… thường chỉ xuất hiện trong câu biểu thị sự tình quan hệ

thâm nhập định tính.

Ví dụ:

(13) Cây nguyệt quế biểu hiện sự vinh quang.

(Yêu thơ văn em tập viết)[54, số 2; tr.62]

(14) Sài Gòn tức Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố đầy nắng gió

phương Nam với những chiều mưa về hối hả.

(Yêu thơ văn em tập viết) [54; số2, tr.62]

Còn các vị tố : là, tức là, nghĩa là, có nghĩa (có nghĩa là), đồng nghĩa,

đóng vai, làm … là những vị tố quan hệ xuất hiện trong câu quan hệ thâm

nhập đồng nhất.

Ví dụ:

(15) Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân.

(Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61]

(16) Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, đặt lợi ích của

nhân dân lên trên hết. (Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61]

Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh chưa trình bày được hết

những vấn đề của “câu quan hệ thâm nhập” (theo cách gọi của tác giả), câu

quan hệ sâu (cách gọi của Halliday). Tuy nhiên, bài viết đã gợi ra một số vấn

đề cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi.

Hoàng Văn Vân, người trực tiếp dịch công trình “Dẫn luận ngữ pháp

chức năng” của M.K.A. Halliday, … Trong công trình “Ngữ pháp kinh

nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống”, Hoàng

Văn Vân đã tiếp thu quan điểm của M.A.K. Halliday: quan điểm chức năng

hệ thống. Công trình của Hoàng Văn Vân nghiên cứu bình diện kinh nghiệm

của cú tiếng Việt, dựa vào mô hình kinh nghiệm của Halliday để mô hình hóa

các khu vực chuyển tác khác nhau trong cú tiếng Việt. Tuy nhiên, chuyên

khảo của Hoàng Văn Vân mới chỉ nghiên cứu giải thích các phạm trù ngữ

pháp trong hệ thống chuyển tác (hay hệ thống các kiểu quá trình) trong tiếng

Việt, còn ở cấp độ chi tiết hơn như “câu quan hệ sâu có từ “là” trong tiếng

Việt” thì Hoàng Văn Vân chưa khảo sát đến.

Bàn thêm về cấu trúc “Danh + là + Danh” của Trần Ngọc Thêm có

phân ra hai kiểu:

“Danh + là + Danh” kiểu 1: tự bản thân hoàn toàn là một câu độc lập, không

phụ thuộc bên ngoài cả cấu trúc và nội dung. Cấu trúc này có thể tham gia vào

câu lớn hơn với tư cách như một mệnh đề, hay một đối tượng. Đặc biệt, nó

không kết hợp được với đại từ chỉ định.

“Danh + là + Danh” kiểu 2: không bao giờ là một câu độc lập, và chỉ có thể là

một thành phần của một câu độc lập khác. Cấu trúc câu kiểu này luôn kết hợp

được với các đại từ chỉ định.

Theo Trần Ngọc Thêm, cấu trúc kiểu 1 khi nghĩa của từ “là” biểu hiện

quan hệ đồng nhất giữa Danh 1 và Danh 2. Danh 1 là tập hợp được xác định,

có thể đơn nhất hay trên một phần tử. Quan hệ ngữ pháp của cấu trúc kiểu 1 là

quan hệ chủ - vị.

Ví dụ: (17) Em tôi là công nhân.

Cấu trúc kiểu 2 khi nghĩa của từ “là” chỉ sự phụ thuộc của Danh 2 vào Danh

1. Danh 1 ở kiểu 2 là tập hợp không đơn nhất và không được xác định. Quan

hệ ngữ pháp của kiểu cấu trúc 2 là quan hệ chính - phụ.

Ví dụ: (18) Những cô gái là sinh viên.

Đỗ Thị Kim Liên trình bày các nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc biểu thị

quan hệ so sánh trong các câu tục ngữ Việt cũng có nhắc đến từ so sánh “là”.

Tuy nhiên, tác giả cho rằng khi câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc có từ so sánh

“là” thì “luôn vắng yếu tố cơ sở so sánh”, ở một số trường hợp có thể lược bỏ

“là”.

Ví dụ:

(20) Cái bị là chị cái thúng.  Cái bị chị cái thúng. [54,số 11, tr.11]

(21) Đậu nành là anh nước lã. Đậu nành anh nước lã. [54,số 11, tr.11]

Khi lược bỏ “là”, các câu tục ngữ có nhóm danh từ chỉ quan hệ thân tộc

có sự bù đắp hết sức tinh tế, từ ba nét nghĩa (giới tính, thứ bậc, quan hệ huyết

thống) chúng chỉ còn lại một nét nghĩa.

Ví dụ: “là” là vị từ so sánh.

(22) Bàng già là bà lim.  Bàng già bà lim.

Cái so sánh Cái được so sánh.

Trong các câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc, “là” có thể được coi như

một vị từ so sánh.

Ví dụ: “là”  vị từ so sánh

(23) Cờ bạc là bác thằng bần.

Cái so sánh Cái được so sánh

(24) Chồng già vợ trẻ là tiên.

Cái so sánh Cái được so sánh

(25) Ruộng rẫy là chiến trường.

Cái so sánh Cái được so sánh

Nguyễn Thị Thanh Hương với bài viết “Bước đầu tìm hiểu về kiểu câu

vị ngữ danh từ tiếng Việt” đã phân ra làm 5 tiểu loại ( câu vị ngữ danh từ nêu

đặc trưng về số lượng; câu vị ngữ danh từ nêu lai lịch; câu vị ngữ danh từ nêu

đặc trưng về màu sắc, mùi vị, hình thể; câu vị ngữ danh từ xác định thời gian,

không gian; câu vị ngữ danh từ nêu quan hệ phân phối). Bài viết này cho thấy

khá rõ tác giả đồng quan điểm với John Lyons, khi cho là cách dùng động từ

“có” và động từ “là” trong các “câu vị ngữ động” khi chuyển qua kiểu “câu vị

ngữ danh” của tiếng Việt có thể loại bỏ hoặc ngược lại khá thú vị. Tiểu loại

câu vị ngữ DT xác định thời gian cho rằng “Tất cả các câu xác định thời gian,

không gian cũng có thể được diễn đạt theo cấu trúc câu vị ngữ động từ, mà

trong đó từ “là” làm thành tố chính” [55,số 4, 10] nhưng nếu diễn đạt theo

cấu trúc vị ngữ DT (tức là lược bỏ vị từ “là”) thì sẽ cho ra cấu trúc câu ngắn

gọn hơn, độc đáo hơn, mang đậm sắc màu Á Đông hơn.

Ví dụ:

(26) Lạt theo chân Keng đi luôn. Đến đầu ngõ thì gặp Ngọ. Hôm nay

chủ nhật. (…) Cô lên phố huyện chơi với bạn làm công trường trên đó. (Anh

Keng- Nguyễn Liên) [55,số 4; tr.9]

(27) Đây suối Lê-nin, kia núi Mác. (Hồ Chí Minh) [55,số 4, tr.9]

Với tiểu loại “câu vị ngữ danh từ nêu đặc trưng về số lượng” thì “trừ các

câu nêu số lượng tuổi, các câu nêu số lượng khác của tiếng Việt đều có thể

kết hợp được với động từ có hay các tính từ khác mà không tạo ra sự khác

biệt với người giao tiếp” [55, số 4; tr.8]

Ví dụ:

(28) Chiếc xe này ba bánh.  Chiếc xe này có ba bánh. [55,số 4; tr.8]

(28) Vườn nhà tôi hai sào.  Vườn nhà tôi rộng hai sào. [55,số 4; tr.8]

Tiểu loại “câu vị ngữ danh nêu lai lịch của con người” đều có thể kết

hợp với động từ “là” để tạo thành câu có nghĩa tương đương.

Ví dụ:

- Cháu tên gì?

(29) - Tui tên Nhọn. [55,số 4,8]  - Tui tên là Nhọn.

(30) - Anh ấy kỹ sư. [55,số 4,8]  - Anh ấy là kỹ sư.

Nói tóm lại, các nhà nghiên cứu trên ở những mức độ khác nhau đều đã

đề cập đến câu quan hệ, hay tương tự “câu quan hệ sâu có từ là trong tiếng

Việt”, nhưng vẫn chưa có sự phân tích kỹ lưỡng về kiểu câu này và chưa đưa

ra đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt.

0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Câu quan hệ của tiếng Việt là một loại câu rất phong phú và đa

dạng. Điều kiện của một luận văn thạc sĩ không cho phép nghiên cứu toàn bộ

những kiểu câu quan hệ như câu quan hệ sở hữu, câu quan hệ chu cảnh và các

phương thức quan hệ của chúng nên chúng tôi chỉ xin giới hạn đề tài trong

một phạm vi nhất định. Mục đích của luận văn là tìm hiểu câu quan hệ có từ

“là” trong tiếng Việt theo quan niệm ngữ pháp chức năng; xác định cái nhìn

tổng quan về câu quan hệ trong tiếng Việt; thống kê, khảo sát các dữ liệu về

câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm nêu lên được đặc điểm ngữ

nghĩa và ngữ pháp của chúng, tần số xuất hiện của kiểu câu này trong các loại

phong cách văn bản.

Về cơ sở lý thuyết luận văn này dựa trên quan điểm của M.A.K.

Halliday trong “ Dẫn luận ngữ pháp chức năng”. Qua khảo sát chúng tôi nhận

thấy có nhiều điểm tương đồng giữa kiểu và hai phương thức quan hệ định

tính và đồng nhất của “câu quan hệ sâu” trong tiếng Anh mà Halliday nghiên

cứu với câu quan hệ trong tiếng Việt. Bên cạnh đó, chúng tôi có tham khảo

thêm các công trình nghiên cứu của các nhà ngữ pháp trong và ngoài nước

khác như S.C. Dik, John Lyons, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn

Vân, Nguyễn Thị Lan Anh, các tác giả quyển Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy

ban Khoa học Xã hội Việt Nam ….

0.4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

0.4.1. Phương pháp nghiên cứu

Ngoài những phương pháp và thủ pháp nghiên cứu khoa học chung

như: thu thập dữ liệu, phân loại, luận văn chủ yếu sử dụng những phương

pháp sau:

- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – cú pháp : Phương pháp này dùng

để phân tích ngữ nghĩa, cấu trúc của các loại câu quan hệ trong tiếng Việt.

- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được dùng khảo sát, miêu tả

các loại câu quan hệ trong tiếng Việt.

- Phương pháp thống kê: Thống kê ngữ liệu về mặt số lượng nhằm xác

định tần số xuất hiện của loại “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt trong

văn bản thuộc những phong cách khác nhau.

0.4.2. Nguồn ngữ liệu

Về ngữ liệu nghiên cứu, chúng tôi cũng giới hạn cụ thể như sau:

Một số bài nghiên cứu khoa học (khoa học tự nhiên và khoa học xã

hội), các bài nghiên cứu trong tạp chí nghiên cứu và phê bình văn học

(phong cách ngôn ngữ khoa học)

Truyện ngắn của các tác giả như Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Lý

Biên Cương …. (phong cách ngôn ngữ văn chương)

Các tin tức trên một số báo điện tử, báo viết, truyền hình, lời kêu gọi

của Bác … (phong cách ngôn ngữ chính luận)

Một số nghị quyết, nghị định, thông tư, hợp đồng, báo cáo, thông báo

…(phong cách ngôn ngữ hành chính)

0.5. Bố cục luận văn

Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội dung của luận văn được cấu

trúc thành hai chương.

Chương 1:

Chương này tóm tắt quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữtrong và ngoài nước như Simon C. Dik, M.A.K. Halliday, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân …. về câu quan hệ, chủ yếu là quan điểm

của M.A.K. Halliday về câu quan hệ. Đây là chương làm tiền đề cho việc

miêu tả và khảo sát câu quan hệ trong tiếng Việt ở chương sau.

Chương 2:

Chúng tôi đi vào chức năng ngữ nghĩa của từ “là” trong câu quan hệ (câu quan hệ sâu theo Halliday), hình thức các tham thể xung quanh vị từ

“là” trong câu quan hệ, thống kê và đưa ra tần số xuất hiện của kiểu câu này

trong văn bản mà chúng tôi chọn làm ngữ liệu, có chú ý khảo sát trong một

số phong cách văn bản. Chương này thông qua những dữ liệu thu thập, làm

nổi rõ chức năng ngữ nghĩa và đặc điểm cấu trúc của loại câu quan hệ có từ

“là” trong tiếng Việt

Phần bên dưới chỉ hiển thị một số trang ngẫu nhiên trong tài liệu. Bạn tải về để xem được bản đầy đủ

  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt
  • Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt

GỢI Ý

Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem

Vị từ cầu khiến trong tiếng Việt

Upload: huyba

📎 Số trang: 102
👁 Lượt xem: 773
Lượt tải: 17

Đối chiếu cấu trúc và phương thức biểu hiện ...

Upload: nguyentruongthi

📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 773
Lượt tải: 31

Đối chiếu cấu trúc và phương thức biểu hiện ...

Upload: msnguyenminhnhat

📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 1726
Lượt tải: 24

Tìm hiểu một số kiểu câu liên quan đến tồn ...

Upload: kimhong1512

📎 Số trang: 60
👁 Lượt xem: 647
Lượt tải: 17

Tìm hiểu một số kiểu câu liên quan đến tồn ...

Upload: sanhangnong

📎 Số trang: 60
👁 Lượt xem: 559
Lượt tải: 16

Từ vựng tiếng Việt trong Việt Nam Tự Điển

Upload: thenhan83vnn

📎 Số trang: 109
👁 Lượt xem: 569
Lượt tải: 17

Từ vựng tiếng Việt trong Việt Nam Tự Điển

Upload: lockhomes

📎 Số trang: 109
👁 Lượt xem: 673
Lượt tải: 16

Vấn đề từ ngoại lai trong tiếng việt Môn ...

Upload: thanglt12009

📎 Số trang: 10
👁 Lượt xem: 621
Lượt tải: 19

Vấn đề từ ngoại lai trong tiếng Việt Môn ...

Upload: long_gado

📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 1007
Lượt tải: 19

Đối chiếu động từ ăn trong tiếng Việt và ...

Upload: phuongnhan

📎 Số trang: 18
👁 Lượt xem: 3444
Lượt tải: 91

Cấu trúc ngữ nghĩa ngữ dụng của phương thức ...

Upload: mrbin162

📎 Số trang: 135
👁 Lượt xem: 595
Lượt tải: 17

Cách luân phiên về vần trong từ láy tiếng ...

Upload: anh_mai_yeu101

📎 Số trang: 42
👁 Lượt xem: 563
Lượt tải: 17

QUAN TÂM

Những tài liệu bạn đã xem

Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt

Upload: ngoac82

📎 Số trang: 146
👁 Lượt xem: 675
Lượt tải: 17

CHUYÊN MỤC

Văn hóa nghệ thuật Ngôn ngữ học
Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt MS:LVNNH002 SỐ TRANG: 146 TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC NĂM: 2009 DẪN NHẬP 0.1 . Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu Ngôn ngữ là một thành tựu vĩ đại nhất của loài người. Mỗi ngôn ngữ thể hiện trong nó không chỉ là bề dày lịch pdf Đăng bởi
5 stars - 297445 reviews
Thông tin tài liệu 146 trang Đăng bởi: ngoac82 - 01/06/2025 Ngôn ngữ: Việt nam, English
5 stars - "Tài liệu tốt" by , Written on 01/06/2025 Tôi thấy tài liệu này rất chất lượng, đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Chia sẻ thông tin với tôi nếu bạn quan tâm đến tài liệu: Câu quan hệ có từ là trong tiếng Việt