Mã tài liệu: 215834
Số trang: 27
Định dạng: pdf
Dung lượng file: 525 Kb
Chuyên mục: Tổng hợp
1. Tính cấp thiết của luận án
Trong thực tế, ngành mầm non hiện nay đã thu hút 61% trẻ độ tuổi mẫu giáo
vào trường. Trẻ được chăm sóc sức khoẻ trong trường mầm non chiếm tỷ lệ khá cao.
Công tác chăm sóc sức khoẻ trong trường mầm non, mặc dầu đã được quan
tâm nhưng việc thực hiện chăm sóc sức khoẻ của trẻ vẫn còn nhiều khó khăn. Hầu
hết các trường không có cán bộ y tế nên việc quản lý và theo dõi sức khoẻ, xử trí
bệnh thường gặp ở trẻ còn gặp nhiều khó khăn, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa. Việc nâng cao chất lượng khẩu phần cho trẻ còn nhiều hạn chế. Tiền ăn
đóng góp của gia đình cho trẻ còn thấp, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng
xa (2000đ- 2500đ/cháu/ngày). Tỷ lệ trẻ mắc một số bệnh nhiễm trùng nh− viêm
nhiễm đường hô hấp, bệnh tiêu hoá, bệnh về mắt, bệnh răng miệng còn cao. Tỷ lệ
suy dinh dưỡng trẻ em dưới 6 tuổi trong trường mầm non chiếm tỷ lệ gần 20%.
Việc chăm sóc sức khoẻ của trẻ chủ yếu phụ thuộc vào kiến thức, thực hành
chăm sóc sức khoẻ của giáo viên có được ở các trường sư phạm mầm non, qua bồi
dưỡng chuyên đề, qua phối hợp với y tế địa phương. Như vậy, thiết kế, đề xuất các
biện pháp cụ thể về chăm sóc sức khoẻ cho trẻ mầm non nói chung và độ tuổi mẫu
giáo nãi riªng là rất cần thiết. Từ những lý do trên đề tài luận án tiến sỹ : “ Chăm
sóc sức khoẻ trẻ mẫu giáo trong trường mầm non và đề xuất giải pháp can
thiệp” nhằm các mục tiêu cụ thể sau:
1. Đánh giá thực trạng chăm sóc sức khoẻ cho trẻ mẫu giáo ở các trường mầm non
nông thôn.
2. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến chăm sóc sức khoẻ cho trẻ mẫu giáo
trong trường mầm non.
3. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp chăm sóc sức khoẻ cho trẻ mẫu giáo, áp
dụng thí điểm ở một số trường mầm non nông thôn.
2. Ý nghĩa thực tiễn và những đóng góp mới của luận án
1. Bằng phương pháp tiếp cận tổng thể, toàn diện về mục tiêu chăm sóc sức
khỏe luận án đã chỉ ra thực trạng chăm sóc sức khoẻ cho trẻ mẫu giáo trong trường
mầm non nông thôn hiện nay còn nhiều bất cập: Bệnh về hô hấp, sâu răng, giun sán
chiếm tỷ lệ cao: hô hấp (10-40%), răng (20% -26%), giun sán (10,0% - 35,4%). Chỉ
có 19,6 % trường mầm non có phòng y tế , 2% trường mầm non có cán bộ y tế
chuyên trách. Số trường đưa hoạt động y tế học đường vào công tác thi đua, khen
thưởng chưa cao (45%). 80% trường chưa có kế hoạch chi tiêu cho y tế trường
học. Cấu trúc nhóm lớp chủ yếu là bán kiên cố ( 60%), vẫn còn 8% trường mầm
non phải học nhờ nhà kho, trường tiểu học. Công trình phụ chưa bố trí liên hoàn
giữa các nhóm lớp. Phương tiên dạy học cho giáo dục sức khoẻ chỉ đáp ứng 50%
so với yêu cầu. Trẻ chưa được rèn luyện nhiều về kỹ năng sống, chưa tạo được
thói quen tốt để tự mình biết bảo vệ sức khoẻ. Kiến thức, thực hành của giáo viên
mầm non, cha mẹ trẻ đa số vẫn còn ở mức trung bình (75%), mức tốt (2%).
2
2. Để khắc phục tình trạng trên, luận án đã đề xuất và triển khai thực nghiệm
các biện pháp chính có tính khả thi cao gồm: (1) Nâng cao vai trò và trách nhiệm
của giáo viên về theo dõi tình trạng thể lực sức khoẻ của trẻ để phát hiện sớm trẻ
mắc bệnh và đề phòng trẻ suy dinh dưỡng.(2) Phối hợp các biện pháp giáo dục sức
khoẻ theo hướng tích hợp các chủ đề, đáp ứng yêu cầu đổi mới. (3) Nâng cao kiến
thức và kỹ năng thực hành chăm sóc sức khoẻ cho trẻ của cán bộ, giáo viên và cha
mẹ. (4) Nâng cao năng lực quản lý chăm sóc sức khoẻ của cán bộ kiêm nhiệm về y
tế học đường. Kết quả thử nghiệm các biện pháp đã tạo nên chuyển biến rõ rệt
đến tình trạng sức khoẻ, dinh dưỡng, kiến thức và thực hành về giáo dục sức
khoẻ cho trẻ 3-5 tuổi cũng như kiến thức, thực hành của giáo viên mầm non
và cha mẹ ở nhóm can thiệp. Kiến thức trẻ 3-<4 tuổi, 4-<5 tuổi tăng lên ở các
nội dung: từ 54%- 70% (3-<4 tuổi), từ 8%-88% (4-<5 tuổi). Kỹ năng thực hành
của trẻ 3-<4 tuổi và 4-<5 tuổi: trẻ xếp loại tốt tăng 80% ( 3-<4 tuổi); tăng 98%
(trẻ 4-<5 tuổi). Tình trạng sức khoẻ : số trẻ bị viêm đường hô hấp giảm 16% (3-<4
tuổi) và 12% ( 4-<5 tuổi); số trẻ bị bệnh răng giảm 6% ở cả hai độ tuổi; số trẻ
bệnh viêm tai/viêm da giảm 4% ở cả hai độ tuổi. Tình trạng dinh dưỡng ( trẻ kênh
B ở nhóm can thiệp đã giảm 8% (3-<4 tuổi) và 10% (4-<5 tuổi). Kiến thức, thực
hành về chăm sóc sức khoẻ trẻ của giáo viên và cha mẹ: Tỷ lệ xếp loại tốt về kiến
thức chăm sóc sức khoẻ trẻ của giáo viên tăng 33,3%, của cha mẹ tăng 46%. Tỷ lệ
xếp loại tốt về thực hành chăm sóc sức khoẻ trẻ của giáo viên tăng 50,7%, của cha
mẹ tăng 44
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 72
👁 Lượt xem: 447
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 56
👁 Lượt xem: 501
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 436
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 437
⬇ Lượt tải: 21
📎 Số trang: 45
👁 Lượt xem: 511
⬇ Lượt tải: 26
📎 Số trang: 25
👁 Lượt xem: 530
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 32
👁 Lượt xem: 474
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 51
👁 Lượt xem: 367
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 19
👁 Lượt xem: 520
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 27
👁 Lượt xem: 490
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 14
👁 Lượt xem: 372
⬇ Lượt tải: 17
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 27
👁 Lượt xem: 1073
⬇ Lượt tải: 16