Mã tài liệu: 96744
Số trang: 113
Định dạng: docx
Dung lượng file: 818 Kb
Chuyên mục: Thú y
Từ ngàn xưa, ngành chăn nuôi đã chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội, vì nó cung cấp trực tiếp cho con người các sản phẩm thiết yếu: Thịt, trứng, sữa, da... và các sản phẩm chế biến khác. Ngày nay cả thế giới đang chú trọng thực hiện đảm bảo “an ninh lương thực”. Mà thực chất của nó là đảm bảo dinh dưỡng cho con người không chỉ lương thực thuần tuý về số lượng mà cả về mặt chất lượng.
Chăn nuôi muốn phát triển phải dựa vào 4 yếu tố
+ Phát huy ưu thế của di truyền, chọn lọc, nhân thuần giống.
+ Đảm bảo an toàn dịch bệnh cho gia súc, gia cầm.
+ Tổ chức quản lý chăn nuôi tiên tiến.
+ Nguồn thức ăn phong phú, dồi dào.
Muốn đảm bảo an toàn dịch bệnh cho gia súc, gia cầm cần phải có thuốc, đặc biệt là chăn nuôi tiên tiến tập trung theo lối thâm canh sản xuất hàng hoá. Chăn nuôi càng tập trung bao nhiêu thì càng dễ bị các bệnh truyền nhiễm bấy nhiêu. Nhà bác học vĩ đại Goocghi Paplốp nói: “Bác sĩ người chữa bệnh cho con người, những bác sĩ thú y chữa bệnh cho loài người”. Nó khẳng định vị trí của thú y đối với ngành chăn nuôi, đồng thời khẳng định ngành chăn nuôi là đối tượng kiểm soát của thú y.
Năm 1998, Đài Loan bị một đợt dịch lở mồm long móng làm thiệt hại 11 tỷ USD bao gồm tiền tiêu diệt trực tiếp lợn và trâu bò nằm trong vùng dịch là 3,7 tỷ USD, tiền bị thiệt hại do chi phí khử trùng, tiêu độc trên xác vật bị bệnh chết là 6,2 tỷ USD. Đó còn chưa tính đến các khoản thiệt hại khác để khôi phục các cơ sở sản xuất, khôi phục chăn nuôi. Ngoài Đài Loan, dịch bò điên ở Anh Quốc đã làm cho thị trường thịt bò và các sản phẩm chế biến từ bò như bơ, sữa, phó mát... của cả khối EU bị xáo trộn, hàng triệu người dân châu Âu lo lắng. ở nước ta, hàng năm số người chết do bệnh chó dại lên đến 3000 người gây nên bao cảnh đau thương, xót xa. Để chăn nuôi đạt được kết quả tốt, để con người tránh được những nỗi đau và được cung cấp những sản phẩm sạch, an toàn thì rõ ràng chăn nuôi phải cần đến thú y [53].
Thuốc thú y là một trong hàng ngàn sản phẩm được sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ ở khắp nơi. Nước ta là một nước nông nghiệp với 79,8% dân số làm nông nghiệp và xu hướng chăn nuôi ngày càng phát triển. Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp đã chỉ rõ: “Từng bước đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong nông nghiệp, phát triển mạnh đàn gia súc, gia cầm, trâu bò cày kéo, sữa thịt, phát triển đàn lợn phù hợp với khả năng sản xuất thức ăn, tạo ra những vùng chăn nuôi tập trung, đi đôi với phát triển thức ăn tinh, thức ăn tổng hợp và cơ sở chế biến thịt xuất khẩu” [47]. Một lần nữa lại khẳng định vai trò quan trọng của thuốc thú y đối với chăn nuôi. Bên cạnh đó thuốc thú y còn có vai trò bảo vệ con người tránh được bệnh lây nhiễm trực tiếp từ động vật.
Trong những năm qua, Công ty vật tư thú y TW1 hoạt động trong cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế phức tạp. Trong nước có nhiều cơ sở sản xuất thuốc thú y và nhiều hãng nước ngoài được phép đưa thuốc thú y vào kinh doanh tại thị trường Việt Nam [14]. Chính sự cạnh tranh này đã làm cho sản phẩm thuốc thú y được phân bố rộng rãi trên toàn quốc tạo điều kiện cho chăn nuôi phát triển. Các sản phẩm thuốc thú y mang tên Công ty đã có mặt trên thị trường nhưng được ít người biết đến. Đối tượng phục vụ là những người nông dân. Do điều kiện kinh tế eo hẹp nên họ thường có xu hướng lựa chọn các loại thuốc rẻ tiền. Do yêu cầu lập đại lý bán thuốc thú y phải có vốn
và trình độ chuyên môn về thuốc thú y cũng như cách sử dụng thuốc nên việc tiêu thụ sản phẩm thuốc thú y gặp nhiều khó khăn.Những vùng sâu, vùng xa, các đại lý không được hưởng chiết khấu phù hợp nên không tạo động lực thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
Sản phẩm thuốc thú y của Công ty tiêu thụ chủ yếu tại thị trường miền Bắc, thị trường miền Trung và miền Nam tiêu thụ còn ít [4]. Mặt khác, do quản lý không tốt một lượng lớn thuốc thú y được nhập lậu từ Trung Quốc sang qua biên giới phía Bắc với giá rẻ hơn so với sản xuất trong nước. Chính vì lý do đó đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và tiêu thụ thuốc thú y của các doanh nghiệp trong nước nói chung và của Công ty cổ phần thuốc thú y TW I nói riêng.
Nội dung:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Phần 3: Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu
Phần 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Phần 5: Kết luận và kiến nghị
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 21
👁 Lượt xem: 1517
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 98
👁 Lượt xem: 896
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 33
👁 Lượt xem: 686
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 45
👁 Lượt xem: 1197
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 49
👁 Lượt xem: 836
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 45
👁 Lượt xem: 769
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 82
👁 Lượt xem: 747
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 54
👁 Lượt xem: 855
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 80
👁 Lượt xem: 412
⬇ Lượt tải: 8
📎 Số trang: 27
👁 Lượt xem: 396
⬇ Lượt tải: 10
📎 Số trang: 49
👁 Lượt xem: 1740
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 96
👁 Lượt xem: 419
⬇ Lượt tải: 4
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 113
👁 Lượt xem: 1011
⬇ Lượt tải: 16