Mã tài liệu: 92469
Số trang: 34
Định dạng: docx
Dung lượng file: 2,766 Kb
Chuyên mục: Y đa khoa
Ngày nay cuộc sống hiện đại các phương tiện giao thông ngày càng tăng và nhất là các phương tiện tốc độ cao, con người làm việc căng thẳng và các mối quan hệ xã hội phức tạp khiến cho tỉ lệ chấn thương cao. Trên thế giới, phần lớn các nghiên cứu cho thấy chấn thương hàm mặt chiếm tỉ lệ khá cao (5-10%) và thường liên quan đến chấn thương sọ não gây tử vong cao [1],[6],[7],[8]. Ở Việt Nam, trong thống kê của ban an toàn giao thông Quốc gia trong 10 năm qua (1991-2001) số tai nạn tăng 3,5 lần. Lâm Ngọc Ấn thống kê trong 17 năm ( 1975-1993) tại viện RHM thành phố Hồ Chí Minh có 2348 trường hợp chấn thương hàm mặt[1]. Trần Văn Trường và Trương Mạnh Dũng thống kê trong 11 năm ( 1988-1999) tại viện RHM Hà Nội có 2147 trường hợp chấn thương hàm mặt. Vũ Thanh Vân thống kê tại bệnh viện tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu trong 9 tháng đầu năm 2001 có 1500 trường hợp chấn thương do tai nạn giao thông trong đó có 319 trường hợp ( 21%) chấn thương hàm mặt[8]. Chấn thương hàm mặt gây ra nhiều tổn thương đa dạng phức tạp nếu không được chăm sóc và điều trị kịp thời có thể gây ảnh hưởng nặng nề đến thẩm mỹ, chức năng ăn nhai.
Chấn thương vùng hàm mặt bao gồm vết thương phần mềm và gãy xương hàm mặt trong đó chủ yếu là xương hàm trên và xương hàm dưới. Do có cấu trúc giải phẫu liên quan trực tiếp đến khoang miệng, ngăn cách bởi một lớp niêm mạc mỏng và răng nên phần lớn các tổn thương gãy xương hàm đều là gãy hở. Môi trường miệng lại là nơi tập trung của rất nhiều loại vi khuẩn vì thế nguy cơ nhiễm trùng vết thương là rất cao gây khó khăn cho công tác điều trị và để lại biến chứng nặng nề.Ngoài ra bệnh nhân chấn thương gãy xương hàm có đặc thù là khó há ngậm miệng và vệ sinh răng miệng do đau. Với BN chấn thương hàm mặt, đa số là sơ cấp cứu có trì hoãn, việc phẫu thuật thường tiến hành ở ngày thứ hai và thứ ba sau tai nạn. Nếu BN có các chấn thương nặng phối hợp như: chấn thương sọ não, ngực bụng…thì việc phẫu thuật chấn thương hàm mặt có thể trì hoãn lâu hơn do phải tập trung điều trị các chấn thương khác có thể ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh. Vì vậy, việc chăm sóc và chuẩn bị trước mổ đối với BN là việc làm cần thiết để đảm bảo an toàn cho BN trong phẫu thuật và làm giảm nhiễm trùng, tăng cường quá trình liền thương sau phẫu thuật. Hơn nữa việc chăm sóc vệ sinh răng miệng cho BN trước mổ còn là nguồn động viên tinh thần quý giá, giúp BN và người nhà cảm thấy yên tâm, đem lại sự lạc quan tin tưởng vào việc chữa trị bệnh.
Nội dung tóm tắt
chương 1
tổng quan
chương 2
đối tượng và phương pháp nghiên cứu
chương 3
kết quả nghiên cứu
chương 4
bàn luận
phần cũng vì đau đớn khó cử động nên cũng ngại thực hiện chăm sóc vệ sinh cho mồm miệng
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 82
👁 Lượt xem: 1079
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 89
👁 Lượt xem: 764
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 96
👁 Lượt xem: 1070
⬇ Lượt tải: 24
📎 Số trang: 60
👁 Lượt xem: 653
⬇ Lượt tải: 22
📎 Số trang: 55
👁 Lượt xem: 657
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 102
👁 Lượt xem: 782
⬇ Lượt tải: 24
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 4954
⬇ Lượt tải: 38
📎 Số trang: 52
👁 Lượt xem: 886
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 83
👁 Lượt xem: 413
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 67
👁 Lượt xem: 669
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 67
👁 Lượt xem: 812
⬇ Lượt tải: 21
📎 Số trang: 44
👁 Lượt xem: 908
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 34
👁 Lượt xem: 1031
⬇ Lượt tải: 23