Info
Trong lịch sử Văn học cận đại Việt Nam, Hồ Biểu Chánh là một trường hợp lý thú. Ông là một tiểu thuyết gia để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, có thể nói đứng hàng thứ hai - sau Lê Văn Trương - trong số những cây bút tiểu thuyết sung sức của nước ta ở thế kỷ XX này: 64 cuuốn truyện dài, 12 tập truyện ngắn và truyện kể. Tiểu thuyết của ông ra đời từ những năm 20(1) sớm thoát ly loại hình tiểu thuyết "diễn nghĩa - chương hồi " tiểu thuyết " kỳ tình - võ hiệp " của nhiều cây bút miền Nam lúc ấy, để lập tức định hình như một chủng loại riêng mà ta có thể tạm gọi là tiểu thuyết " đạo lý - xã hội " trên con đường tìm kiếm hối hả và vật lộn để trưởng thành của văn xuôi tự sự hồi này. Chỉ vài năm sau khi xuất hiện Hồ Biểu Chánh đã gây được một tiếng vang đáng kể trong đông đảo độc giả, nhất là độc giả miền Nam và mặc dù ngòi bút sáng tạo của ông từ khỏang giữa những năm 34 trở đi không có gì mới hơn, cách viết của ông vẫn là cách viết cổ điển, nghiêm trang, “tả” phối với "kể” cho đến tận cuối đời, các cuốn sách ông viết ra vẫn “ăn khách”. Có thể nói nhà tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã tạo được một khu vực ảnh hưởng lâu dài cho riêng mình, trong đời sống văn học. Từ góc độ tâm lý học sáng tạo và tiếp nhận văn học mà nói thì đó là một thành công đáng suy nghĩ mà không phải hễ cứ là người cầm bút có tên tuổi, đều dễ dàng đạt được.Đi sâu vào nội dung nghệ thuật, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh còn đặt cho người nghiên cứu nhiều vấn đề phải nghiền ngẫm lâu dài. Thoạt mới nhìn, tiểu thuyết của ông cũng như phần lớn tiểu thuyết thuộc dòng đạo lý trước 1932(2), lấy kết cấu đối lập chính - tà làm đường dây phát triển. Đó là những câu chuyện được kể lại một cách bình dị, kết thúc thường có hậu và trình tự diễn tiến cũng không có gì khúc mắc, bất ngờ. Nhân vật trong các truyện được xếp đặt theo hai tuyến chính nghĩa và gian tà, bên chính nghĩa nhiều khi nặng về màu sắc lý tưởng và do đó thường sơ lược, bên gian tà thì sắc sảo linh hoạt, do đó có vẻ "thật” hơn: nhưng nói chung dù chính nghĩa hay gian tà đều là những kiểu người có thể có ở giữa đời thường, không đẩy lên mức kỳ dị để làm "mê mẩn” người đọc. Trừ một ít tác phẩm cá biệt nào đấy, còn thì phần lớn các truyện được gọi là “truyện dài” cũng đều có số trang ngắn gọn. Và tuy có chú ý trau chuốt, tu sức, ngôn ngữ nghệ thuật của Hồ Biểu Chánh vẫn là ngôn ngữ đời sống, “trơn tuột như lời nói thường”(3). Hồ Biểu Chánh quả là người đã tích cực kế thừa những đặc điểm của truyện nôm bình dân, một mảng sáng tác quan trọng bậc nhất trong đời sống văn học của quần chúng các thời kỳ quá khứ. Nói cách khác, ông biết tìm con đường riêng cho tiểu thuyết của mình bằng cách phát huy kinh nghiệm truyền thống khai thác nguồn cảm hứng nghệ thuật phù hợp với khẩu vị của bạn đọc phổ cập và đông đảo. Chính vì thế đối tượng đọc Hồ Biểu Chánh rộng rãi hơn rất nhiều nhà văn có cách viết cao xa, bay bướm, sang trọng.