Tìm tài liệu

The gioi nghe thuat tho Nguyen Duy

Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy

Upload bởi: huynhhoaqtkd

Mã tài liệu: 298081

Số trang: 134

Định dạng: pdf

Dung lượng file: 1,573 Kb

Chuyên mục: Văn học

Info

MS: LVVH-LLVH008

SỐ TRANG: 134

TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM

NGÀNH: VĂN HỌC

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC

NĂM: 2009

DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài

Trong những năm chiến đấu chống Mỹ xuất hiện lớp nhà thơ mặc áo lính, tuổi

đời còn rất trẻ. Như nhiều thanh niên thời bấy giờ, theo tiếng gọi của Tổ quốc, họ lên

đường nhập ngũ. Trong số đó có Nguyễn Duy. Ông tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ,

sinh năm 1948 tại Đông Vệ, Thanh Hóa. Nguyễn Duy từng tham gia chiến đấu nhiều

năm trên các chiến trường Khe Sanh, Đường Chín, Nam Lào, rồi sau này là mặt trận

phía Nam, mặt trận phía Bắc (1979). Nguyễn Duy làm thơ khá sớm nhưng đến năm

1973, ông mới được độc giả biết đến với chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ của

tuần báo Văn nghệ: “Tre Việt Nam, Bầu trời vuông, Hơi ấm ổ rơm”. Từ đó Nguyễn

Duy đã xuất bản nhiều tập thơ sáng giá trong tiến trình thơ đương đại Việt Nam: Cát

trắng (1973), Phóng sự 30-4-1975 (1981), Ánh trăng (1984) ...đã đưa ông lên vị trí là

một trong những nhà thơ “đem lại vinh quang cho cả thế hệ thơ trẻ thời kỳ chống

Mỹ” (Trần Đăng Suyền) [117, tr.92], góp phần “in đậm dấu ấn của thời đại” (Lưu

Khánh Thơ) [5, tr.4].

Sau 1975, thơ Việt Nam trải qua một giai đoạn chững lại, tìm đường. Trong

hoàn cảnh đó, Nguyễn Duy vẫn “bền bỉ kiên trì trong quá trình sáng tạo, cố gắng đi

sâu vào mọi khía cạnh của hiện thực đời sống, hiện thực tâm trạng” (Lưu Khánh

Thơ)[5, tr.4]. Với các tập thơ: Mẹ và em (1987), Đãi cát tìm vàng(1987), Đường xa

(1989), Quà tặng (1990), Về (1994), Vợ ơi (1995)... cùng tuyển tập Thơ Nguyễn Duy

Sáu & Tám, Nguyễn Duy đã thuộc “lực lượng đi tiên phong” (Trần Nhuận Minh) [4,

tr.4] trong thời kì Đổi Mới với nhiều “chuyển đổi trong phương thức chiếm lĩnh hiện

thực, trong các quan niệm mới về nghệ thuật, trong thế giới nghệ thuật có phần mới

mẻ, khác lạ về con người, trong ý thức mới đối với tư cách chủ thể của nhà

văn”(Phong Lê) [71, tr.344].

Thơ Nguyễn Duy đã được chọn đưa vào chương trình giảng văn ở bậc phổ

thông, giới thiệu ra nước ngoài, đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học

đánh giá, công bố trên các báo chuyên ngành, được công chúng yêu thơ đọc và bình

phẩm. Tuy nhiên, ngoài những bài viết đó và một vài luận văn cử nhân, vẫn chưa có

những công trình nghiên cứu toàn diện về thơ ông. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài Thế

giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc công trình

nghiên cứu của những người đi trước để nhằm góp thêm một cái nhìn khái quát về sự

nghiệp thơ ca của nhà thơ Nguyễn Duy.

2. Giới hạn đề tài

2.1. Mục đích nghiên cứu

Đặt Nguyễn Duy trong tiến trình thơ ca Việt Nam hiện đại, từ việc khảo sát

nghiên cứu văn bản thơ, tìm hiểu hành trình sáng tạo của nhà thơ, chúng tôi hướng tới

xác định cảm hứng chủ đạo và đặc điểm nghệ thuật thơ Nguyễn Duy về: ngôn ngữ,

giọng điệu, đặc biệt là thể thơ lục bát. Từ đó khẳng định những đóng góp của ông -

một tác giả có vị trí đáng kể trong đời sống thơ ca Việt Nam từ năm 1970 đến nay.

“Đánh giá một tác giả văn học, cần xem tác giả ấy đã kế thừa được những gì

trong truyền thống văn học quá khứ, của những người đi trước. Và phải xem họ đã

đem lại một cái gì mới: một mảng hiện thực, một cách nhìn cuộc sống, một giọng

văn, những đổi mới về thể loại” [74,tr.717]. Vì vậy, trong điều kiện và chừng mực

nhất định, chúng tôi đối sánh thơ Nguyễn Duy với thơ của một số tác giả trước hoặc

cùng thời như: Nguyễn Bính, Bùi Giáng, Hữu Thỉnh...để từ đó rút ra những nét riêng

biệt ở thơ ông.

2.2. Đối tượng nghiên cứu

Nguyễn Duy sáng tác ở nhiều thể loại khác nhau như: thơ, tiểu thuyết, bút kí,

phóng sự, kịch thơ và sáng tác các loại lịch thơ, tranh thơ...nhưng với đề tài này, luận

văn chỉ tập trung nghiên cứu thơ trữ tình của Nguyễn Duy. Cụ thể ở các tập thơ: Cát

trắng (1973), Phóng sự 30-4-1975 (1981), Ánh trăng (1984), Mẹ và em (1987), Đãi

cát tìm vàng (1987), Đường xa (1989), Về (1994), Thơ Nguyễn Duy Sáu & Tám

(1994), Vợ ơi (1995), Bụi (1997), Tuyển tập thơ Nguyễn Duy (bản thảo do tác giả

cung cấp).

Bên cạnh việc khảo sát các tác phẩm trên, chúng tôi còn tiếp thu một cách chọn

lọc những nhận định đánh giá của các công trình nghiên cứu đã có và những ý kiến

của chính tác giả để đảm bảo tính khoa học, tính khách quan cho luận văn.

3. Lịch sử vấn đề

Xuất hiện trên thi đàn Việt Nam từ những năm bảy mươi, Nguyễn Duy đã tạo

ấn tượng nơi người đọc về một giọng thơ nhiều triển vọng. Có thể nói người có công

phát hiện và giới thiệu thơ Nguyễn Duy đầu tiên là Hoài Thanh. Trải qua hơn một

phần tư thế kỷ, đã có nhiều nhà phê bình, nghiên cứu nhận xét, đánh giá thơ Nguyễn

Duy, có thể chia làm bốn nhóm: Một là loại bài tìm hiểu những bài thơ, tập thơ tiêu

biểu. Hai là, loại bài nghiên cứu khái quát thơ Nguyễn Duy. Ba là, những bài phát

biểu, trả lời phỏng vấn của chính nhà thơ về tác phẩm của mình. Bốn là, một số luận

văn cử nhân nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy. Nhìn chung, các bài nghiên cứu đã đi

vào tìm hiểu nội dung và nghệ thuật thơ Nguyễn Duy ở những phương diện và mức

độ khác nhau. Trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi sẽ hệ thống những ý kiến

nổi bật, những nhận định quan trọng liên quan đến cảm hứng chủ đạo và đặc điểm

nghệ thuật thơ Nguyễn Duy.

Để hình dung cụ thể, trong phần lịch sử vấn đề, chúng tôi phân chia ra các

nhóm ý kiến sau:

3.1. Hướng tiếp cận về nội dung

Trong những bài nghiên cứu đánh giá, thẩm bình về thơ Nguyễn Duy, nhiều

tác giả đã có những phát hiện về nét riêng độc đáo đối với từng tác phẩm của ông. Cụ

thể trong Hơi ấm ổ rơm, Vũ Quần Phương cho là “tấm lòng thơm thảo, nhường cơm

xẻ áo của nhân dân ta” [99, tr.154]. Trong Đò Lèn, Trịnh Thanh Sơn cho là “những

thước phim quay chậm” về nỗi gian truân của người bà, khiến độc giả “chỉ đọc thôi

đã muốn trào nước mắt”)[112, tr.14]; Đỗ Lai Thúy thì cho là sự “giải cổ tích hóa”, là

“cốt cách hiện đại” [138 ,tr 379-384]. Trong Ánh trăng, Nguyễn Bùi Vợi đã cảm

“nỗi ăn năn nhân bản, thức tỉnh tâm linh, làm đẹp con người” [148, tr.7]. Ngồi buồn

nhớ mẹ ta xưa, Đặng Hiển cho là “đã động thấu đến những tình cảm thiêng liêng

nhất, sâu xa nhất và thân thương nhất của chúng ta - tình cảm đối với mẹ” [49, tr.34].

Còn Lê Trí Viễn khi nói về bài Tre Việt Nam đã khẳng định đó là những biểu hiện

của “phẩm chất con người” [147, tr.289]. Những bài nghiên cứu ấy đã chỉ ra cảm

hứng trong thơ Nguyễn Duy xuất phát từ sự trân trọng, yêu thương, phát hiện ra vẻ

đẹp của con người Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn, gian khổ đặc biệt là

những gian khổ thấm đẫm máu, mồ hôi, nước mắt của người dân.

Tập thơ của Nguyễn Duy được nhiều nhà phê bình chú ý là Ánh trăng- tác

phẩm được nhận giải thưởng của Hội nhà văn 1984. Nhận xét về nội dung tập thơ

này, Từ Sơn viết: “Tám mươi bài thơ chọn in trong hai tập Cát trắng và Ánh trăng

chiếm số lượng lớn vẫn là những bài thơ viết về người lính, về những điều đã cảm

nhận trên các nẻo đường chiến tranh...Nguyễn Duy đã đi nhiều nơi, đã tiếp xúc với

nhiều người. Bao giờ anh cũng dành những tình cảm tốt đẹp nhất của mình cho đồng

đội và cho những người dân bình thường” [116, tr.2]. Cùng ý kiến đó, Lê Quang

Hưng cũng rất sâu sắc khi nhận định: Tiếng nói của Nguyễn Duy trong Ánh trăng

“trước tiên vẫn là tiếng nói của một người lính, tiếng nói tìm đến những người lính-

những đồng đội để sẻ chia, trò chuyện...Đúng như Nguyễn Duy tâm sự: anh luôn cảm

thấy mình mắc nợ cuộc sống, mắc nợ những đồng đội. Các cảm giác đáng quí cũng

là cái ý thức trách nhiệm ấy đã thôi thúc anh, nâng giúp anh viết ngày một nhiều,

ngày một hay hơn về những người chiến sĩ” [58, tr.156]. Trên cơ sở đó, Lê Quang

Hưng rút ra sự hấp dẫn của tập thơ: “Ánh trăng được nhiều bạn đọc yêu thích trước

hết vì nó thực sự là một phần của một cuộc đời, là tiếng nói của một cây bút có trách

nhiệm trước cuộc sống xây dựng và chiến đấu sôi động trên đất nước ta những năm

qua” [58, tr.158].

Tế Hanh cũng thể hiện sự trân trọng của mình khi nhận xét về tập thơ Ánh

trăng của Nguyễn Duy. Trong bài “Hoa trên đá và Ánh trăng” đăng trên báo Văn

nghệ số 15/1986, ông viết: “Đọc thơ Nguyễn Duy trước hết ta thấy anh là một người

lính đã chiến đấu ở nhiều mặt trận. Hiện nay anh không phải là quân nhân nhưng

những câu thơ anh viết về bộ đội, về cuộc đời quân nhân vẫn là những câu thơ thấm

thía nhất” [40, tr.3]. Dù mỗi người nhìn nhận, đánh giá tập thơ này ở những góc độ

khác nhau, nhưng nhìn chung các ý kiến trên đều thống nhất ở một điểm: cảm hứng

để Nguyễn Duy viết là từ những tâm sự và trải nghiệm của chính bản thân nhà thơ-

một người lính đã từng trải qua những địa danh trận mạc cũng là những địa danh của

thi ca, một công dân có trách nhiệm sâu sắc đối với cuộc đời.

Trong các bài nghiên cứu khái quát thơ Nguyễn Duy của Hoài Thanh, Lại

Nguyên Ân, Nguyễn Thụy Kha, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Quang Sáng, Chu Văn

Sơn, Vũ Văn Sỹ, Nguyễn Trọng Tạo, Đỗ Minh Tuấn, Phạm Thu Yến, các tác giả đều

có khuynh hướng đi sâu tìm hiểu những nội dung cơ bản trong thơ Nguyễn Duy. Các

bài viết này đã khẳng định thế giới nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy ngay từ khi mới

xuất hiện là những cảnh vật, sự việc, con người bình thường trong cuộc sống, gần gũi

với nhà thơ và với mọi người. Có thể nói, bài phê bình sớm nhất về thơ Nguyễn Duy

là “Đọc một số bài thơ của Nguyễn Duy” của Hoài Thanh, đăng trên Báo Văn nghệ

số 444/1972. Bài viết khẳng định: “Thơ Nguyễn Duy đưa ta về một thế giới quen

thuộc... Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những con người, những

cuộc đời cần cù gian khổ, không tuổi không tên... Đọc thơ Nguyễn Duy, thấy anh

thường hay cảm xúc, suy nghĩ trước những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình...”

[129, tr.5]. Cùng ý kiến đó, Lại Nguyên Ân trong bài “Tìm giọng mới thích hợp với

người thời mình” cho rằng thơ Nguyễn Duy “nhạy cảm với cái gì ít ỏi, còm nhom,

queo quắt, cộc cằn , đơn lẻ” [2, tr.11]. Trong bài “Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn

Duy”, in trong phụ lục tập thơ Mẹ và em, Nguyễn Quang Sáng nêu ý kiến: “Ngoài

mảng thơ về đề tài chiến trận, thơ Nguyễn Duy chủ yếu dành cho những đề tài muôn

thuở: tình yêu, con người và đất nước quê hương...Trong thơ Duy có hầu hết gương

mặt các miền đất với những cảnh sắc, thần thái riêng” [111, tr.91]. Cũng bình về

những đặc điểm này Vũ Văn Sỹ có những nhận xét khá tinh tế: “Nguyễn Duy thường

nắm bắt những cái mong manh nhưng vững chắc trong đời: chút rưng rưng của ánh

trăng, một tiếng tắc kè lạc về giữa phố, một dấu chân cua lấm tấm ruộng bùn, một kỉ

niệm chập chờn nguồn cội, một mùi thơm của huệ trắng trong đền, thoáng hư thực

giữa người và tiên phật...Và rồi hồn thơ Nguyễn Duy neo đậu được ở đó” [124,

tr.69]. Sau khi nêu những cảm nhận chung, Vũ Văn Sỹ đã mượn ngay câu thơ của

Nguyễn Duy để kết luận về cảm hứng chủ đạo trong thơ ông: “Nguyễn Duy- người

thương mến đến tận cùng chân thật” . Và nếu như Nguyễn Đức Thọ chỉ chú ý

một khía cạnh trong thơ Nguyễn Duy: “Có lẽ sau cụ Tú Xương, tôi chưa thấy ai ca

ngợi vợ tài như Nguyễn Duy” [135, tr.82-90] thì Nguyễn Quang Sáng, một người bạn

thân thiết với Nguyễn Duy, nêu nhận xét cụ thể hơn: “Nguyễn Duy gắn bó máu thịt

với đất nước mình bằng tình cảm rất cụ thể với người dân...Thơ Nguyễn Duy có niềm

tự hào chính đáng về nhân dân mình, cùng với nỗi buồn thương chính đáng” [111,

tr.97]. Còn nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đưa ra một nhận xét có ý nghĩa khái

quát: “Bao dung nên giàu có” [83, tr.280]. Nhìn chung các ý kiến đánh giá trên đã chỉ

ra được nét riêng và độc đáo của thơ Nguyễn Duy là ông thường cảm xúc - suy nghĩ

về những điều bình dị, cụ thể của đời thường. Đặc điểm này thể hiện trong thơ ông

như một mạch thống nhất, xuyên suốt cả trong hoàn cảnh chiến tranh và hòa bình.

Cùng tìm hiểu về nội dung thơ Nguyễn Duy, năm 2008, trong luận văn tốt

nghiệp, sinh viên Nguyễn Thị Thu Hiền với đề tài “Cái tôi nội cảm tìm về cội nguồn

trong thơ trữ tình Nguyễn Duy” đã đi sâu làm rõ một trong những khía cạnh nổi bật

của thơ trữ tình Nguyễn Duy: cảm xúc về quê hương xứ sở, điệu hồn của dân tộc, về

đạo đức truyền thống và những giá trị thiêng liêng cùng nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ

tình. Tuy nhiên những vấn đề trên chưa được nghiên cứu sâu.

3.2. Hướng tiếp cận về nghệ thuật

Phương diện được các tác giả quan tâm nhiều nhất và có ý kiến tương đối

thống nhất là thể loại. Bài “Tre Việt Nam” được nhiều nhà phê bình phân tích, đánh

giá; có thể xem đây là một trong những bài thơ lục bát tiêu biểu của Nguyễn Duy.

Văn Giá trong “Một lục bát về tre” nhận xét: “ Lựa chọn thể thơ 6-8, một thể thơ

thuần chất Việt Nam, tác giả xử lý thật nhuần nhuyễn, trôi chảy, trau chuốt, không

non ép, gượng gạo, vấp váp một chỗ nào. Trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ, phần

các bài viết theo thể lục bát không phải là nhiều nhất nhưng anh vẫn được coi là một

trong những nhà thơ hiện đại viết lục bát thành công nhất. Với tất cả những gì đạt

được, anh đã góp phần đem lại một sắc điệu hiện đại cho thể thơ lục bát của dân

tộc” [9, tr.93]. Và chính Nguyễn Duy, khi trả lời phỏng vấn trên báo Đại đoàn kết đã

bộc bạch: “Những bài thơ lục bát là phần quý giá nhất của mình” [12, tr.14]. Lê

Quang Trang khẳng định “Anh vốn là người sở trường về sử dụng thơ lục bát” [141,

tr.200]. Nguyễn Quang Sáng cũng cùng ý kiến đó khi cho rằng: “Nguyễn Duy vốn có

ưu thế và trội hẳn lên trong thể thơ lục bát” [111, tr.91]. Nguyễn Thụy Kha: “Sẵn cái

chất hóm hỉnh, dân dã, sâu sắc hơi chua cay chút chút, Duy quả là thiện nghệ trong

cái trò “ 6&8” này” [61, tr.204]. Và nếu năm 1986, Lại Nguyên Ân còn e dè khi cho

rằng: “Ngay cả những bài lục bát, ta cũng thấy có cái gì bên trong như muốn cãi lại

vẻ êm nhẹ mượt mà vốn có của câu hát ru truyền thống” [2, tr.11] thì đến năm 1999,

Vũ Văn Sỹ đã mạnh mẽ khẳng định: “Nguyễn Duy đã sử dụng lục bát để thuần hoá

chất liệu cập nhật của đời sống. Lục bát trong tay Nguyễn Duy trở nên vừa êm ái vừa

ngang ngạnh, vừa quen thuộc vừa biến hoá, “cựa quậy”. Làm thơ lục bát đến như

Nguyễn Duy có thể xếp vào bậc tài tình” [124,tr.74]. Nhà thơ Trần Đăng Khoa trong

lời giới thiệu in ở đầu tập thơ “Nguyễn Duy- thơ với tuổi thơ” cũng đã chỉ ra sự đổi

mới cách tân của Nguyễn Duy khi sử dụng thể thơ dân tộc: “Lục bát của Nguyễn Duy

rất hiện đại. Câu thơ vừa phóng túng ngang tàng lại vừa uyển chuyển, chặt chẽ với

một bút pháp khá điêu luyện. Nguyễn Duy là người có công trong việc làm mới thể

thơ truyền thống này” . Nguyễn Thị Thúy Hằng trong luận văn tốt nghiệp đại học

năm 1999, với đề tài “Thơ lục bát của Nguyễn Duy” đã khảo sát Câu lục bát trong ca

dao truyền thống và thơ lục bát của Nguyễn Duy. Từ đó, chỉ ra sự kế thừa những đặc

điểm của ca dao và thơ truyền thống trong câu thơ Nguyễn Duy, nêu một vài điểm

đổi mới trong thơ ông như: Quan niệm về thế giới và con người, hình thức trình bày

thơ, cấu tứ và kết cấu ở một bài thơ lục bát...Có thể thấy, mỗi tác giả đánh giá thơ lục

bát của Nguyễn Duy ở một khía cạnh khác nhau nhưng nhìn chung các ý kiến này

đều thống nhất cho rằng thơ lục bát Nguyễn Duy thực sự có vị trí cao trong các sáng

tác lục bát đương thời.

Ngôn ngữ - vốn là một phương diện rất quan trọng trong việc tìm hiểu nghệ

thuật thơ Nguyễn Duy nhưng lại chưa có sự thống nhất cao. Theo Nguyễn Quang

Sáng: “Thơ Nguyễn Duy đượm tính dân tộc và nhuần nhuyễn ngôn ngữ dân gian.”

[111, tr.96], Phạm Thu Yến lại có ý kiến khác: thơ Nguyễn Duy là sự kết hợp giữa

“ngôn ngữ đời thường” và ngôn ngữ “đậm màu sắc hiện đại” [152, tr.79 ]. Còn với

Vương Trí Nhàn, thơ Nguyễn Duy là “bản hợp xướng của những chữ lạ” [83, tr.283].

Hồ Văn Hải thì khẳng định: “Sáng tạo từ láy là điểm nổi bật nhất trong lục bát

Nguyễn Duy” [44, tr.6 ].

Phương diện được nhiều nhà nhiên cứu, phê bình quan tâm là giọng điệu. Khi

bình bài “Tre Việt Nam”, GS.Lê Trí Viễn cho rằng: “Giọng điệu bài thơ là kể chuyện

như kể chuyện cổ tích” [147, tr.289]. Năm 1986, trong bài viết “Tìm giọng mới thích

hợp với người thời mình”, Lại Nguyên Ân tập trung tìm hiểu sự cách tân giọng điệu

trong thơ Nguyễn Duy: “Thật ra thơ Nguyễn Duy nhìn chung vẫn nằm trong điệu trữ

tình...Thơ Nguyễn Duy gần đây thường có thêm sắc giọng thủng thẳng, hơi ngang

ngạnh và ương bướng”. Với Lại Nguyên Ân, giọng điệu đó làm cho thơ tình “bớt đi

cái tha thiết héo ruột héo gan vốn thường có ở những khí chất yếu, những tâm trạng

u sầu lối cũ” “tăng thêm cái khoẻ khoắn mạnh mẽ vốn là đặc điểm của con người

thời nay”[2, tr.11]. Ngô Thị Kim Cúc khi đọc tập thơ “Bụi” của Nguyễn Duy đã

nhận xét: “Từ bài đầu đến bài cuối hầu hết vẫn giống nhau ở một cách viết, vẫn cái

giọng cà tửng cà khịa khiến người ta lúc đầu bật cười rồi sau đó thấm thêm một tí lại

trào nước mắt” [13, tr.5]. Phạm Thu Yến thì cho rằng: khuynh hướng hài hước, trào

lộng là một trong những biểu hiện của thi pháp ca dao và đã nhẹ nhàng phê bình

Nguyễn Duy đôi khi “quá đà”, khiến người đọc phải “ái ngại” [152, tr.76-82].

Trong các bài phê bình nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy, thì bài viết “Nguyễn

Duy - thi sĩ thảo dân” của Chu Văn Sơn là một bài viết công phu, cung cấp cho

người đọc một cái nhìn tương đối rõ về con đường sáng tác của Nguyễn Duy. Ông

gọi thế giới thơ Nguyễn Duy là “cõi chúng sinh thì hiện tại”: binh lửa và bụi bặm,

bùn nước và gió trăng, nghèo đói và tiềm năng, tàn phá và gây dựng, xơ xác và nhen

nhóm, bần bách và phù hoa”; nhân vật là “thập loại chúng sinh”, là bà, mẹ, cha ,vợ,

con...đặc biệt là những con người không may mắn xuất hiện trong đời sống như “chú

bé đi bụi khoèo mái hiên lắng nghe pháo tết, em điếm ế đón giao thừa gốc cây, bà bới

rác nằm co ro gầm cầu...”. Từ đó biện giải “Nguyễn Duy là thi sĩ thảo dân”, chỉ ra

bản chất “thảo dân” ấy ở cảm hứng sáng tác, ngôn ngữ, giọng điệu, thể thơ lục bát

của Nguyễn Duy [114, tr.38-53].

Như vậy, qua các bài nghiên cứu, phê bình thơ Nguyễn Duy nêu trên, chúng tôi

nhận thấy các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc phát hiện ra một số

đặc điểm về nội dung, nghệ thuật nổi bật của thơ ông. Nhưng nhìn chung, các bài viết

này chỉ mới đi vào tìm hiểu một bài thơ, tập thơ hoặc chỉ dừng lại nghiên cứu một

khía cạnh, một mặt nào đó trong thơ Nguyễn Duy, chưa có một công trình nào đi sâu

nghiên cứu, khảo sát toàn diện và có hệ thống về thơ ông, để từ đó rút ra những đặc

điểm khái quát về nội dung tư tưởng, nghệ thuật thơ Nguyễn Duy...Tuy nhiên đây là

những nhận định hết sức đáng quý, gợi mở cho chúng tôi nhiều vấn đề về cảm hứng,

ngôn ngữ, giọng điệu, thể thơ lục bát của Nguyễn Duy trong việc thực hiện đề tài

luận văn.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu trên, chúng tôi vận dụng các phương pháp

chủ yếu sau đây:

4.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp

Đây là phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói chung.

Chúng tôi sẽ vận dụng phương pháp này để phân tích câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, bài

thơ có tính chất tiêu biểu, điển hình để minh họa cho các luận điểm của luận văn.

4.2. Phương pháp cấu trúc- hệ thống

Quan niệm thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể, xuất phát từ đặc điểm riêng

của thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy, luận văn chú trọng việc tìm ra những thành

tố tạo nên chỉnh thể này và qui luật cấu trúc nên nó. Mọi đối tượng, mọi vấn đề khảo

sát được chúng tôi đặt trong tương quan hệ thống, trong qui luật cấu trúc này.

4.3. Phương pháp so sánh

Mục đích của việc sử dụng phương pháp so sánh là để khẳng định nét độc đáo,

đặc sắc của phong cách thơ Nguyễn Duy trong mối tương quan so sánh với các tác

giả, tác phẩm khác ở cả hai chiều lịch đại và đồng đại. Với việc sử dụng phương pháp

này chúng tôi có cơ sở để tìm hiểu, lí giải và xác định rõ những giá trị cũng như đóng

góp của thơ Nguyễn Duy trên nhiều bình diện khác nhau.

4.4. Phương pháp phân loại, thống kê

Đối với từng thành tố trong chỉnh thể, đối với các yếu tố thuộc phương thức,

phương tiện trữ tình trong thơ Nguyễn Duy, khi cần thiết luận văn thực hiện phân loại

và thống kê qua các con số cụ thể.

5. Đóng góp của luận văn

Luận văn đã tìm hiểu thơ Nguyễn Duy trên bình diện của thế giới nghệ thuật.

Trong quá trình tiếp cận “Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy”, người viết xem đó

như một chỉnh thể nghệ thuật bao gồm nhiều phương diện có mối quan hệ gắn bó

biện chứng với nhau. Với đề tài này, người viết mong muốn đóng góp thêm một

hướng tiếp cận, nhằm tìm hiểu tương đối đầy đủ về sự nghiệp sáng tác thơ ca của

nhà thơ Nguyễn Duy, thông qua việc nghiên cứu những vấn đề nổi bật như: Hành

trình sáng tạo, cảm hứng chủ đạo và những đặc điểm nghệ thuật thơ ông, để từ đó

khẳng định bản sắc riêng độc đáo của ngòi bút Nguyễn Duy và vị thế của ông trong

tiến trình vận động và phát triển của thơ Việt Nam hiện đại.

Người viết cũng hi vọng rằng những tư liệu và kết quả của luận văn sẽ góp một

phần nhỏ vào việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập thơ Nguyễn Duy trong nhà trường

được tốt hơn.

6. Cấu trúc luận văn

Phù hợp với lôgic nội tại của vấn đề đặt ra nghiên cứu, ngoài phần Dẫn nhập

và Kết luận, luận văn được triển khai trong ba chương:

Chương 1: Hành trình nghệ thuật của Nguyễn Duy.

Chương 2: Cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Duy.

Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật thơ Nguyễn Duy.

Cuối cùng là danh mục Tài liệu tham khảo.

7. Giới thuyết khái niệm: “Thế giới nghệ thuật”

Thế giới nghệ thuật là một cụm từ càng gần đây càng được sử dụng nhiều cả

trong đời sống và trong học thuật. Nó được dùng khi con người có nhu cầu diễn đạt ý

niệm về cái chỉnh thể bên trong của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình

tác phẩm, sáng tác của một tác giả, một trào lưu...). Có nhiều cách lý giải về thế giới

nghệ thuật. Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: Thế giới nghệ thuật là một thế giới

được tạo ra trong nghệ thuật. Nó hoàn toàn “khác với thế giới thực tại vật chất hay

thế giới tâm lí của con người mặc dù nó phản ánh thế giới ấy” “Thế giới nghệ thuật

thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được tạo ra theo các

nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật...Mỗi thế giới nghệ thuật như một mô hình nghệ

thuật trong việc phản ánh thế giới, ứng với một cách quan niệm về thế giới, một cách

cắt nghĩa về thế giới” [39, tr.352]. Lê Ngọc Trà quan niệm: “Đối tượng nghiên cứu

đầu tiên của thi pháp học là các yếu tố và cấu trúc tác phẩm văn học như ngôn ngữ,

thế giới nghệ thuật, kết cấu và chủ thể nghệ thuật [140, tr.140]. “Thế giới nghệ thuật

bao gồm nhân vật, cốt truyện và các chi tiết được mô tả, không gian, thời gian nghệ

thuật...Nghiên cứu thế giới nghệ thuật của tác phẩm, khám phá được tính chỉnh thể ấy

có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm hiểu cách cảm nhận thế giới cũng như quan

niệm tư tưởng của nhà văn” [140, tr.141]. Lê Tiến Dũng cho rằng: “Qua văn bản

ngôn từ người đọc bắt gặp “bức tranh đời sống”, một thế giới như ta đã gặp đâu đó

trong đời, lại như chưa gặp bao giờ...Người ta gọi lớp này là lớp thế giới nghệ thuật

hay là lớp hình tượng”. “Mỗi nhà văn, mỗi thời đại văn học sáng tạo ra một thế giới

nghệ thuật riêng. Tiếp nhận được thế giới này là cơ sở để hiểu tư tưởng - nghệ thuật

của tác phẩm, cảm nhận được những gì nhà văn miêu tả, kí thác cũng như cái nhìn,

quan niệm của nhà văn về con người, cuộc sống” [15, tr.11].

Những quan niệm trên về thế giới nghệ thuật thiên về tác phẩm văn xuôi và nội

dung được phản ánh trong tác phẩm. Từ góc độ thi pháp học chúng tôi quan niệm

“hình thức mang tính nội dung và nội dung là một nội dung được xác định trong hình

thức” [118, tr.9]. Nói cách khác thế giới nghệ thuật không đơn thuần là vấn đề hình

thức mà trong tính chỉnh thể của nó, hình thức thẩm mĩ đó luôn được thẩm thấu,

chuyển hóa trong một nội dung thích hợp. Thông qua thế giới nghệ thuật của một nhà

thơ ta có thể phân biệt được chỗ sâu sắc, tư tưởng nghệ thuật độc đáo của nhà thơ ấy

với nhà thơ khác. Vậy “Thế giới nghệ thuật” vừa là thế giới được tạo thành trong thơ

qua cách cảm nhận riêng của tác giả vừa là hình thức biểu hiện của thế giới ấy, một

hình thức thích hợp duy nhất để nội dung được biểu hiện trọn vẹn và đầy đủ.

Với “Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy”, chúng tôi tập trung nghiên cứu

cảm hứng sáng tác và phương thức biểu hiện trong thơ như: thể thơ, ngôn ngữ, giọng

điệu... Từ đó thấy được phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Duy vừa mang nét riêng

cá nhân vừa phản ánh trình độ nghệ thuật của một giai đoạn lịch sử, một thời đại.

Phần bên dưới chỉ hiển thị một số trang ngẫu nhiên trong tài liệu. Bạn tải về để xem được bản đầy đủ

  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Đang tải dữ liệu ...
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy
  • Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy

GỢI Ý

Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem

Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Trọng Tạo

Upload: xixi_mimi

📎 Số trang: 59
👁 Lượt xem: 496
Lượt tải: 16

Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Trọng Tạo

Upload: nguyentho586

📎 Số trang: 58
👁 Lượt xem: 561
Lượt tải: 16

Thế giới nghệ thuật thơ Anh Thơ

Upload: nguyenduy2310

📎 Số trang: 82
👁 Lượt xem: 382
Lượt tải: 16

Thế giới nghệ thuật truyện Nguyễn Ngọc Thuần

Upload: angelli0304

📎 Số trang: 102
👁 Lượt xem: 778
Lượt tải: 16

Thế giới nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải

Upload: futures6472

📎 Số trang: 99
👁 Lượt xem: 547
Lượt tải: 16

Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử ...

Upload: back4good

📎 Số trang: 40
👁 Lượt xem: 528
Lượt tải: 16

Hình tượng thơ và quan niệm nghệ thuật về ...

Upload: mevabe3579

📎 Số trang: 57
👁 Lượt xem: 575
Lượt tải: 17

Tính đa nghĩa như là một phẩm chất nghệ ...

Upload: thuy08qt

📎 Số trang: 7
👁 Lượt xem: 348
Lượt tải: 16

Thế giới nghệ thuật truyện ngắn kônxtantin ...

Upload: ngocnv6822

📎 Số trang: 90
👁 Lượt xem: 740
Lượt tải: 19

Tín hiệu thẩm mĩ đất trong thơ Nguyễn Duy

Upload: tuanquynh51

📎 Số trang: 39
👁 Lượt xem: 736
Lượt tải: 18

Thơ Tình Thế Giới

Upload: fomtala7

📎 Số trang: 110
👁 Lượt xem: 564
Lượt tải: 16

Thế giới nghệ thuật trong kịch shakuntala ...

Upload: vcbhoaian

📎 Số trang: 74
👁 Lượt xem: 1196
Lượt tải: 21

QUAN TÂM

Những tài liệu bạn đã xem

Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy

Upload: huynhhoaqtkd

📎 Số trang: 134
👁 Lượt xem: 546
Lượt tải: 16

CHUYÊN MỤC

Văn hóa nghệ thuật Văn học
Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy MS: LVVH-LLVH008 SỐ TRANG: 134 TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM: 2009 DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm chiến đấu chống Mỹ xuất hiện lớp nhà thơ mặc áo lính, tuổi đời còn rất trẻ. Như nhiều thanh niên pdf Đăng bởi
5 stars - 298081 reviews
Thông tin tài liệu 134 trang Đăng bởi: huynhhoaqtkd - 21/10/2024 Ngôn ngữ: Việt nam, English
5 stars - "Tài liệu tốt" by , Written on 21/10/2024 Tôi thấy tài liệu này rất chất lượng, đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Chia sẻ thông tin với tôi nếu bạn quan tâm đến tài liệu: Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy