Mã tài liệu: 295617
Số trang: 33
Định dạng: zip
Dung lượng file: 138 Kb
Chuyên mục: Tổng hợp
MỤC LỤC
Phần 1: Viện khoa học lao động và xã hội.
I. Sự hình thành và phát triển của Viện.
II. Chức năng, nhiệm vụ của Viện.
1. Chức năng của Viện.
2. Nhiệm vụ của Viện.
III. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Viện.
IV. Các đề tài nghiên cứu của Viện trong những năm qua.
V. Trang thiết bị phục vụ cho làm việc và nghiên cứu của Viện.
VI. Đánh giá chung về công tác hoạt động của Viện trong những năm qua.
1. Những thành tựu đã đạt được.
2. Tồn tại và khuyết điểm.
VII. Phương hướng công tác trong những năm tới.
Phần 2: Trung tâm nghiên cứu khoa học lao động nữ và giới.
I. Sự hình thành và phát triển của trung tâm.
II. Trang thiết bị phục vụ cho làm việc và nghiên cứu của trung tâm.
III. Các sản phẩm và phương hướng nghiên cứu trong những năm tới.
1. Các sản phẩm nghiên cứu của trung tâm trong thời gian qua.
2. Phương hướng nghiên cứu của trung tâm trong thời gian tới.
IV. Lực lượng cán bộ của trung tâm.
Phần 3: Định hướng đề tài.
PHẦN 1: VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI.
i. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI.
Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội được thành lập ngày 14.4.1978 theo quyết định số 79 CP của hội đồng chính phủ với tên là Viện khoa học lao động với nhiệm vụ chủ yếu là:
- Nghiên cứu những nguyên tắc tổ chức và sử dụng hợp lý các nguồn lao động xã hội.
- Nghiên cứu các nguyên tắc và phương pháp để xây dựng các loại tiêu chuẩn lao động và tiền lương.
- Nghiên cứu nhằm khai thác các tiềm năng tăng năng suất lao động.
- Nghiên cứu về tổ chức lao động khoa học trong công nhân, cán bộ, nhân viên, xã viên hợp tác xã và tổ chức áp dụng thử các kết quả nghiên cứu đó.
- Nghiên cứu về tâm, sinh lý học lao động và xã hội học về lao động.
- Xây dựng các căn cứ kinh tế kỹ thuật để hoàn chỉnh hệ thống thang bảng lương và khuyến khích vật chất đối với người lao động.
- Tổ chức thu thập thông tin, mở rộng hợp tác trong nước và ngoài nước trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học lao động và tiền lương.
Trên cơ sở các nhiệm vụ đó Viện đã hình thành cơ cấu tổ chức gồm các phòng ban chuyên môn như: phòng định mức lao động và tổ chức lao động khoa học, phòng tiền lương, phòng điều kiện lao động, phòng năng suất lao động.... Số cán bộ ban đầu chỉ gồm gần 20 người từ các vụ, ban trong Bộ, lực lượng cán bộ nòng cốt là từ vụ định mức của Bộ lao động, đồng thời viện đã tiếp nhận thêm nhiều cán bộ tốt nghiệp từ các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.
Trong thời kỳ này để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý Nhà nước nên các công trình, đề tài nghiên cứu của Viện đã tập trung chủ yếu vào các nghiên cứu nhằm tạo cơ sở và công cụ quản lý cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp quốc doanh, các HTX, các nông trường trong việc xây dựng định mức lao động, tổ chức lao động khoa học, trả lương, thưởng và đưa ra các mô hình sx tiên tiến.
Hợp tác về nghiên cứu trong thời kỳ này cũng được Viện quan tâm, đã thành lập mối quan hệ hợp tác với các viện nghiên cứu về lao động của các nước thành viên hội đồng tương trợ kinh tế. Qua đó Viện đã thực hiện một số đề tài nghiên cứu chung cùng các viện như: “ Kinh nghiệm quản lý lao động ở các nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế”, “ Các phương pháp luận chứng đồng bộ các mức lao động”...
Cùng với sự đổi mới chung của cả nước tháng 5.1987 sau khi Bộ Lao động sáp nhập với Bộ Thương binh - Xã hội thì Viện được giao thêm chức năng nghiên cứu các vấn đề xã hội. Đây cũng là thời điểm khó khăn nhất của Viện về lực lượng cán bộ. Trong thời kỳ này nhiều cán bộ có năng lực đã đi hợp tác lao độngnước ngoài. Do đó một trong những nhiệm vụ được Viện coi trọng là bổ sung đội ngũ cán bộ và hoàn thiện cơ câú tổ chức.
Từ những năm 90 , để phù hợp với những thay đổi trong cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, Viện đã xác định lại hướng nghiên cứu, xây dựng lại chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban, hình thành một số phòng, trung tâm như: phòng việc làm để tập trung nghiên cứu các vấn đề về thị trường lao động nhằm tạo thêm việc làm, quan hệ lao động, đào tạo và đào tạo lại cho người lao động. Thành lập trung tâm nghiên cứu lao động nữ nhằm nghiên cứu phục vụ, đề ra các chính sách hỗ trợ cho lao động nữ có thêm điều kiện gia nhập thị trường lao động. Viện còn thành lập các phòng nghiên cứu về bảo hiểm, bảo trợ xã hội nhằm đi sâu nghiên cứu về cơ chế quản lý BHXH, nghiên cứu về người có công, về người già, về lao động trẻ em, nghiên cứu về lao động trẻ em, nghiên cứu về đói nghèo và các vấn đề tệ nạn xã hội. Việc nghiên cứu về tiền lương cho các doanh nghiệp như trước đây nay chuyển sang nghiên cu cả về mức sống dân cư, nghiên cứu nhằm đề ra các thang, bảng lương, cơ chế quản lý tiền lương cho các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước và ngoài nhà nước…
Để phù hợp với sự thay đổi này Viện đã chuyển hướng nghiên cứu từ nghiên cứu chủ yếu nhằm phục vụ cho các cơ sở sản xuất sang chủ yếu phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô phù hợp với nền kinh tế thị trường và từng bước hội nhập vào khu vực và thế giới.
Các công trình nghiên cứu lớn trong thời gian này về tiền lương và BHXH đã góp phần cho việc xây dựng đề án cải cách chính sách tiền lương và đề án cải cách BHXH. Trong những năm 1992 – 1995 Viện đã chủ trì và tham gia nghiên cứu những đề tài thuộc chương trình khoa học cấp nhà nước như: KX04, KX07,KX11…
Một trong những ưu tiên của Viện trong thời gian này là đã thực hiện các dự án điều tra về lao động và xã hội ở các vùng kinh tế nhằm hình thành một hệ thống thông tin phục vụ cho việc xây dựng các định hướng lớn của ngành. Dự án điều tra lao động và xã hội trên phạm vi cả nước đã góp phần cho việc xây dựng quy hoạch về lao động trên phạm vi cả nước, ở các vùng và cho các tỉnh. Viện đã cử nhiều chuyên gia tham gia xây dựng chiến lược kinh tế xã hội, các văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ VIII và các văn kiện hội nghị trung ương trên lĩnh vực lao động. Viện cũng tham gia tích cực trong việc soạn thảo các chương trình việc làm Quốc gia và xoá đói giảm nghèo. Dự án nghiên cứu về doanh nghiệp nhỏ đã góp phần đề ra các giải pháp mới nhằm tạo việc làm và qua đó Viện đã thu thập được nhiều thông tin phục vụ cho việc xây dựng chương trình việc làm quốc gia. Dự án điều tra về điều kiện lao động đã cung cấp các thông tin cho việc ban hành danh mục các nghề, công việc nặng nhọc độc hại và đặc biệt nặng nhọc độc hại nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Dự án về thông tin thị trường lao động đã đưa ra được các phương pháp nhằm thu thập thông tin về cung và cầu lao động theo đó các dịa phương có thể tự xây dựng hệ thống dữ liệu, đánh giá tình hình nhằm góp phần cho việc triển khai chương trình việc làm quốc gia. Được sự tài trợ về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế, Viện đã thực hiện nhiều dự án cóhiệu quả: dự án điều tra về sinh viên tốt nghiệp đại học đã góp phần cho việc nghiên cứu thị trường lao động cuả những người có trình độ kỹ thuật, đóng góp quan trọng cho nghiên cứu về tài chính, giáo dục và xã hội hoá giáo dục. Dự án nghiên cứu về chính sách xã hội đối với các đối tượng yếu thế nhằm góp phần cho việc đề ra các chính sách để những người có hoàn cảnh khó khăn có điều kiện hoà nhập vào cộng đồng…
Viện đã xây dựng luận cứ để phê duyệt văn kiện xây dựng bộ luật lao động. Với sự hỗ trợ của ILO, Bộ đã ây dựng thành công Bộ luật lao động, đã được quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực từ tháng 1 năm 1995. Một trong những đóng góp khác của các đề tài cấp bộ đó là góp phần rà soát, sửa đổi các chính sách hiện hành và vận dụng vào trong thực tiễn cuộc sống.
Mở rộng hợp tác nghiên cứu là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất để co được những thành tựu của Viện, có được những tư liệu và kiến thức kiến thức quản lý lao động của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Mở đầu của hợp tác với các tổ chức ILO, Viện đã phối hợp với tổ chức quản lý lao động châu Á (ARPLA) tổ chức hội thảo về quản lý lao động. Tiếp đến Viện đã nhận đợc sự hỗ trợ và hợp tác của hàng loạt các tổ chức quốc tế như: ILO, trường kinh tế Stockholm, Viện FES cộng hoà liên bang Đức, ngân hàng thế giới, Viện lao động Nhật Bản, UNICEF…
Năm 1995 viện đã chính thức được công nhận là thành viên chính thức của “ Mạng lưới các tổ chức nghiên cứu về lao động” của các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương thuộc ILO. Từ khi là thành viên của tổ chức này hàng năm cán bộ của Viện đã được tham gia các hội thảo quốc tế ở các nước, Viện được cung cấp định kỳ về thông tin lao động của các nước trong khu vực và hơn nữa Viện dã mở ra được hợp tác song phương với các Viện nghiên cứu thành viên.
Hợp tác với các cơ quan trong nước cũng được Viện đặc biệt chú trọng vì Viện đã thực hiện một loạt các công trình nghiên cứu liên ngành, hơn nữa để thực hiện dự án có quy mô lớn thì Viện không thể hoàn thành với chất lượng cao nếu không có sự tham gia của các Viện nghiên cứu như:Viện kinh tế học, viện xã hội học, viện quản lý kinh tế trung ương, trường ĐH Kinh tế quốc dân…
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 10
👁 Lượt xem: 283
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 18
👁 Lượt xem: 308
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 8
👁 Lượt xem: 405
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 34
👁 Lượt xem: 352
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 31
👁 Lượt xem: 344
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 23
👁 Lượt xem: 393
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 28
👁 Lượt xem: 285
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 20
👁 Lượt xem: 320
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 30
👁 Lượt xem: 360
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 59
👁 Lượt xem: 724
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 68
👁 Lượt xem: 382
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 33
👁 Lượt xem: 300
⬇ Lượt tải: 16