Mã tài liệu: 286396
Số trang: 0
Định dạng: zip
Dung lượng file: 1,420 Kb
Chuyên mục: Tổng hợp
MỞ ĐẦU
Dầu mỏ là khoáng vật phong phú nhất trong tự nhiên, là một trong
những nguyên liệu thô quan trọng nhất mà loài người có được và nó là một
trong những nguồn cung cấp hydrocacbon phong phú nhất có trong tự nhiên.
Dầu mỏ được con người biết đến từ thời cổ xưa, đến thế kỷ XVIII dầu
mỏ được sử dụng làm nhiên liệu để đốt và thắp sáng. Sang thế kỷ XIX, dầu
được coi như là nguồn nhiên liệu chính cho mọi phương tiện giao thông và
cho nền kinh tế. Hiện nay, dầu mỏ đã trở thành nguồn năng lượng quan trọng
nhất của mọi quốc gia trên thế giới. Khoảng 65 ÷ 70% năng lượng sử dụng đi
từ dầu mỏ, chỉ 20 ÷ 22% đi từ than, 5 ÷ 6% từ năng lượng nước và 8 ÷ 12% từ
năng lượng hạt nhân. Bên cạnh việc sử dụng dầu mỏ để chế biến thành các
dạng nhiên liệu thì hướng sử dụng mạnh mẽ và hiệu quả nhất của dầu mỏ là
làm nguyên liệu cho công nghiệp tổng hợp hữu cơ – hóa dầu như: sản xuất
cao su, chất dẻo, tơ sợi tổng hợp, các chất hoạt động bề mặt, phân bón…
Ngành khai thác chế biến dầu khí là một ngành công nghiệp mũi nhọn,
trong một tương lai dài vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong lĩnh vực năng
lượng và nguyên liệu hoá học mà không có tài nguyên thiên nhiên nào thay
thế được. Hiệu quả sử dụng dầu mỏ phụ thuộc vào chất lượng của các quá
trình chế biến. Theo các chuyên gia về hóa dầu Châu Âu, việc đưa dầu mỏ
qua các quá trình chế biến sẽ nâng cao được hiệu quả sử dụng của dầu mỏ lên
5 lần, và như vậy tiết kiệm được nguồn tài nguyên quý giá này.
Dầu mỏ là hỗn hợp rất phức tạp gồm hydrocacbon, khí thiên nhiên, khí
dầu mỏ và các hợp chất khác như CO2, N2, H2, H2S, He, Ar, Ne… Dầu mỏ
muốn sử dụng được phải phân chia thành từng phân đoạn nhỏ. Sự phân chia
đó dựa vào phương pháp chưng cất để thu được các sản phẩm có nhiệt độ sôi
khác nhau. Trong nhà máy lọc dầu, phân xưởng chưng cất dầu thô là một
phân xưởng quan trọng, cho phép ta thu được các phân đoạn dầu mỏ để chế
biến tiếp theo. Đồ án này đưa ra các vấn đề lý thuyết liên quan và thiết kế
phân xưởng chưng cất dầu thô với nguyên liệu là dầu thô Trung Đông.
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT
I. NGUYÊN LIỆU DẦU THÔ
I.1. Thành phần hóa học của dầu thô:
I.1.1. Thành phần nguyên tố
Dầu mỏ là một hỗn hợp phức tạp, trong dầu có chứa tới hàng trăm chất
khác nhau, nhưng các nguyên tố cơ bản chứa trong dầu là cacbon và hydro.
Trong đó C chiếm 83 ÷ 87 %, H chiếm 11,5 ÷ 14% . Ngoài các nguyên tố
chính trên, trong dầu còn có các nguyên tố khác như lưu huỳnh S chiếm 0,1 ÷
7%, nitơ N chiếm 0,001 ÷ 1,8%, oxy O chiếm 0,05 ÷ 1,0% và một lượng nhỏ
các nguyên tố khác như halogen (clo, iod) các kim loại như: niken, vanadi,
volfram…
Dầu mỏ càng chứa nhiều hydrocacbon, càng ít các thành phần dị
nguyên tố, chất lượng càng tốt và loại dầu mỏ đó có giá trị kinh tế cao.
I.1.2. Thành phần hydrocacbon
Hydrocacbon là thành phần chính trong dầu, hầu như tất cả các loại
hydrocacbon (trừ olefin) đều có mặt trong dầu mỏ. Chúng chiếm tới 90%
trọng lượng của dầu . Số nguyên tử có trong mạch từ 1 ÷ 60 hoặc có thể
cao hơn. Chúng được chia thành các nhóm parafin, naphaten, aromat, lai hợp
naphaten – aromat. Bằng các phương pháp hoá lý đã xác định được hơn 400
loại hydrocacbon khác nhau .
a. Hydrocacbon Parafin
Parafin còn gọi là alkan, có công thức tổng quát là CnH2n+2 (với n ≥1), là
loại hydrocacbon phổ biến nhất. Về mặt cấu trúc, hydrocacbon parafin có hai
loại. Loại cấu trúc mạch thẳng gọi là n-parafin và loại cấu trúc mạch nhánh
gọi là iso-parafin. Trong đó, n-parafin chiếm đa số (25 ÷ 30% thể tích) chúng
có số nguyên tử cácbon từ C1 ÷ C45 .
Trong dầu mỏ chúng tồn tại ở ba dạng rắn, lỏng, khí ở điều kiện thường
(nhiệt độ 25oC, áp suất khí quyển). Các parafin mạch thẳng chứa đến 4
nguyên tử cacbon đều nằm ở thể khí. Các n-parafin mà phân tử chứa 5 ÷ 17
nguyên tử cacbon nằm ở thể lỏng, còn các n-parafin chứa 18 nguyên tử
cacbon trở lên nằm ở dạng tinh thể.
Hydrocacbon parafin từ C5 ÷ C10 nằm trong phần nhẹ của dầu, có
nhánh (iso-parafin) là những cấu tử tốt của xăng, vì làm cho xăng có khả năng
chống cháy kích nổ tốt. Trong khi đó các n-parafin lại có tác dụng xấu cho
khả năng chống kích nổ (n-C7 đã có trị số octan bằng 0). Những hydrocacbon
parafin có số nguyên tử từ C10 ÷ C16 nằm trong nhiên liệu phản lực, diesel, khi
có cấu trúc thẳng lại là các cấu tử có ích cho nhiên liệu vì chúng có khả năng
tự bốc cháy cao khi trộn với không khí bị nén trong động cơ. Trong chế biến
hoá dầu, những hydrocacbon parafin chứa trong phần nhẹ đầu hay trong khí
đồng hành lại là nguyên liệu rất tốt cho quá trình sản xuất olefin thấp như
etylen, propylen, butylen, và butadien đó là những nguyên liệu cơ sở cho tổng
hợp hoá học để sản xuất chất dẻo, vải, sợi hoá học, tơ nhân tạo.
Những n-parafin có số nguyên tử cao từ C18 trở lên, ở nhiệt độ thường
có dạng tinh thể rắn trong dầu. Chúng có thể hoà tan hoặc tạo thành các tinh
thể lơ lửng trong dầu. Nếu hàm lượng các parafin này cao, chúng có thể làm
cho toàn bộ dầu thô bị đông đặc, mất hẳn tính linh động, gây khó khăn cho
quá trình khai thác, vận chuyển và bảo quản. Người ta phải áp dụng các biện
pháp kỹ thuật chuyên biệt và công nghệ phức tạp để xử lý nhằm mục đích loại
các parafin rắn đến mức độ cần thiết, sao cho sản phẩm có độ linh động trong
điều kiện sử dụng.
Nếu bơm và vận chuyển các loại dầu này ta phải áp dụng các biện pháp
như: gia nhiệt đường ống, cho thêm phụ gia, tách bớt parafin rắn ngay tại nơi
khai thác để hạ điểm đông đặc. Các biện pháp này gây tốn kém, làm giảm giá
thành dầu thô.
Tuy nhiên các parafin rắn tách được từ dầu thô lại là nguyên liệu quý của
quá trình chế biến, sản xuất các sản phẩm tiêu dùng như nến, giấy sáp, diêm
hay vật liệu chống thấm hay để điều chế chất tẩy rửa tổng hợp, tơ sợi, phân
bón, chất dẻo… Mặt khác nếu đem oxy hoá chúng người ta nhận được các
axit béo, alcol cao, đó là các nguyên liệu quý để tổng hợp các chất hoạt động
bề mặt là loại chất có nhiều ứng dụng trong nền kinh tế.
Còn các iso-parafin thường chỉ nằm trong phần nhẹ và phần có nhiệt độ
sôi cao thì chúng rất ít. Về vị trí nhánh phụ có hai đặc điểm sau: các isoparafin
trong dầu mỏ đều có cấu trúc đơn giản mạch chính dài và mạch phụ
ngắn. Các nhánh phụ thường là gốc metyl. Đối với các iso-parafin có một
nhánh phụ thì thường đính vào các vị trí cacbon số 2 hoặc số 3, còn vị trí sâu
hơn thì rất ít. Đối với các loại hyđrocacbon có 2, 3 nhánh phụ thì xu hướng
tạo nên mạch cacbon bậc 4, nghĩa là 2 nhánh phụ đính vào cùng một cacbon
trong mạch chính.
Các iso-parafin so với n-parafin chúng có độ linh động cao hơn. Chúng
làm tăng trị số octan của xăng.
b. Các hydrocacbon naphtenic:
Naphtenic hay còn gọi là cyclo parafin, có công thức tổng quát là
CnH2n. Hàm lượng có thể thay đổi 30 ÷ 60% trọng lượng . Những
hydrocacbon này thường gặp là loại một vòng, trong đó chiếm chủ yếu là loại
vòng 5 cạnh. Loại vòng naphten 7 cạnh hoặc lớn hơn ít gặp trong dầu. Những
naphten có từ 2 hay 3 vòng ngưng tụ cũng ít gặp, nhưng loại naphten có vòng
ngưng tụ với hydrocacbon thơm hay có mạch nhánh dài lại hay gặp trong dầu
mỏ. Hydrocacbon này do bị ảnh hưởng của các vòng hay nhánh dài nên tính
chất thuần của naphten không còn nguyên nữa mà đã mang tính chất lai hợp
giữa mạch vòng và mạch thẳng nên gọi là hydrocacbon lai hợp. Hydrocacbon
lai hợp có số lượng lớn ở nhiệt độ sôi cao của dầu mỏ.
Những loại naphten hai vòng cũng đã thấy có trong dầu mỏ và đã định
được những loại naphten hai vòng có số nguyên tử cacbon đến C20 ÷ C25.
Hiện nay, các phân tích hóa học đã xác định được 25 hợp chất naphten
hai vòng, 5 hợp chất naphten ba vòng, và 4 hợp chất naphten bốn và năm
vòng. Cũng chưa có bằng chứng phân tích nào cho biết chính xác cấu trúc của
các hợp chất naphten có số vòng lớn hơn 5. Tuy nhiên, dựa trên kết quả phân
tích phổ khối của các phân đoạn dầu nặng, đã tìm thấy sự có mặt của các
hydrocacbon naphten đa vòng với số vòng lên tới 7 hoặc 8 trong cấu trúc của
nó
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 30
👁 Lượt xem: 643
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 61
👁 Lượt xem: 501
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 1
👁 Lượt xem: 529
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 1
👁 Lượt xem: 599
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem