Mã tài liệu: 229485
Số trang: 6
Định dạng: doc
Dung lượng file: 76 Kb
Chuyên mục: Luật
NỘI DUNG
[FONT=Times New Roman]Thực trạng giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai đã và đang là vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế đất nước, ổn định xã hội. Các nội dung khiếu kiện về đất đai hiện nay chiếm đa số trong tổng số khiếu kiện chung. Ngoài ra, các tranh chấp về đất đai cũng gia tăng. Có thể nói, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo phức tạp trong lĩnh vực đất đai, trong đó có nguyên nhân pháp luật.
[FONT=Times New Roman]1. Tranh chấp đất đai
[FONT=Times New Roman]Theo quy định tại Điều 136 của Luật Đất đai năm 2003 thì việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của hai hệ thống cơ quan khác nhau là cơ quan xét xử (Tòa án) và cơ quan hành chính (Chủ tịch Ủy ban nhân dân - UBND - cấp huyện, cấp tỉnh; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường). Việc phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về đất đai theo hai tiêu chí: 1) tính pháp lý của việc sử dụng đất, trong đó, nếu đương sự có giấy tờ về quyền sử dụng đất thì vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; nếu đương sự không có giấy tờ về quyền sử dụng đất1 thì vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND; 2) tính sở hữu tài sản tranh chấp. Trong đó, nếu tài sản (thuộc sở hữu tư nhân) gắn liền với đất tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
[FONT=Times New Roman]Trong giai đoạn trước khi ban hành Luật Đất đai năm 2003, việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất được thực hiện theo hướng dẫn tại các thông tư liên tịch giữa Tổng cục Địa chính, Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao2. Điều 136 của Luật Đất đai đã kế thừa quy định của Luật Đất đai năm 1993 và pháp điển từ nội dung hướng dẫn của Thông tư liên tịch này. Tuy nhiên, từ khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành (ngày 01/7/2004) đến nay, vẫn không có văn bản hướng dẫn chi tiết quy định tại Điều 136 của Luật Đất đai năm 2003. Do có sự khác nhau rất lớn giữa cơ chế, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai theo thẩm quyền của Tòa án (có thể giải quyết nhiều lần) và theo thẩm quyền của UBND (chỉ có thể giải quyết hai lần), nên trong thực tiễn đã phát sinh những vướng mắc sau:
[FONT=Times New Roman]1.1. Tiêu chí phân định thẩm quyền theo giấy tờ về quyền sử dụng đất
[FONT=Times New Roman]Cách quy định “đương sự” có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo Điều 136 của Luật Đất đai năm 2003 tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau. Nếu theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, đương sự là các bên liên quan đến tranh chấp; còn theo Luật Đất đai, đó chỉ là người sử dụng đất. Thực tiễn đặt ra nhiều loại tranh chấp khó xác định ai là đương sự vì khi đang có tranh chấp thì chưa có cơ sở xác định phần diện tích đất tranh chấp thuộc về ai: người đang có giấy tờ hay người sử dụng liền kề. Từ đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khó có cơ sở để thụ lý khi có đơn khởi kiện tranh chấp. Có thể nói, đây cũng là khe hở phát sinh tiêu cực vì thực tế Tòa án có thể thụ lý hoặc không thụ lý vụ án.
[FONT=Times New Roman]Mặt khác, bản chất giải quyết tranh chấp là xác định phần diện tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của ai nhưng thẩm quyền giải quyết lại căn cứ theo người có giấy tờ. Như vậy, phần diện tích đất tranh chấp ít nhất có hai người (hai tổ chức) thì trong đó chỉ có thể có một người có giấy tờ; thậm chí, có trường hợp giấy tờ do người thứ ba cầm giữ (hiện nay, tình trạng mua, bán nhà đất dưới dạng hợp đồng ủy quyền cho người thứ ba giữ giấy tờ gốc và được quyền định đoạt tiếp để trốn thuế thu nhập cá nhân đang diễn ra phổ biến). Nếu bên thiệt hại là bên không giữ giấy tờ thì không thể khởi kiện để bảo vệ quyền lợi.
[FONT=Times New Roman]Đặc biệt, trong quy trình cấp giấy chứng nhận, quản lý hồ sơ địa chính, Nhà nước thiết lập hai kênh: một là, cấp giấy tờ chứng nhận cho người sử dụng; hai là, lưu giữ trong hồ sơ địa chính. Hiện nay, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất được giao trách nhiệm quản lý và tổ chức khai thác thông tin về hồ sơ địa chính. Theo đó, người có quyền lợi liên quan có quyền đề nghị cung cấp thông tin liên quan đến thửa đất tranh chấp (trả phí dịch vụ), thông tin này có giá trị pháp lý3. Như vậy, người bị xâm hại quyền lợi trong tranh chấp đất đai mặc dù không nắm giữ giấy tờ về quyền sử dụng đất nhưng pháp luật vẫn cho phép có cách để có giấy tờ có giá trị pháp lý về quyền sử dụng đất đang tranh chấp.
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 58
👁 Lượt xem: 412
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 93
👁 Lượt xem: 643
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 79
👁 Lượt xem: 495
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 22
👁 Lượt xem: 706
⬇ Lượt tải: 24
📎 Số trang: 22
👁 Lượt xem: 747
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 7
👁 Lượt xem: 3119
⬇ Lượt tải: 42
📎 Số trang: 21
👁 Lượt xem: 1350
⬇ Lượt tải: 23
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 464
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 598
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 5
👁 Lượt xem: 1570
⬇ Lượt tải: 24
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 755
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 63
👁 Lượt xem: 438
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 6
👁 Lượt xem: 363
⬇ Lượt tải: 16