Mã tài liệu: 234743
Số trang: 11
Định dạng: doc
Dung lượng file: 122 Kb
Chuyên mục: Luật
DẪN ĐỀ
Các mục tiêu khó dung hòa về chế định con nuôi có yếu tố nước ngoài
và những vấn đề về xây dựng quy phạm xung đột cân bằng
Các xung đột pháp luật về con nuôi có yếu tố nước ngoài bắt nguồn từ sự khác biệt
trong những quan niệm cơ bản về chế định. Thực vậy, trong khi ở một số nước, vấn đề
con nuôi không được quy định trong pháp luật thì ở một số nước khác, ví dụ các nước
theo pháp luật Hồi giáo truyền thống, vấn đề con nuôi bị nghiêm cấm tuyệt đối. Ngoài
ra, một số quốc gia lại chỉ chấp nhận các trường hợp con nuôi trong nước và nghiêm
cấm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; trong khi ở một số nước khác, pháp luật lại
chỉ cho phép nhận nuôi các trẻ em tàn tật, mồ côi, bị bỏ rơi hoặc có quan hệ họ hàng,
thân thích với người xin nhận con nuôi (ví dụ các Điều 35 và 36 khoản 2b Nghị định số
68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Việt Nam). Như vậy, các xung đột
pháp luật trong trường hợp này liên quan cụ thể đến điều kiện nuôi con nuôi.
Tương tự, liên quan đến hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, cũng tồn tại nhiều
quan niệm khác nhau. Một số nước chấp nhận chế định "con nuôi không đầy đủ" theo
đó, không cắt đứt quan hệ cha mẹ - con cái giữa con nuôi với cha mẹ đẻ, để con nuôi
vẫn có quyền thừa kế trong gia đình huyết thống. Trong khi một số nước khác lại quy
định chế định "con nuôi đầy đủ", với hệ quả là cắt đứt quan hệ cha mẹ - con cái giữa
con nuôi với gia đình gốc. Québec và Việt Nam (dường như) thuộc vào nhóm nước thứ
hai, còn Pháp lại cho phép cả hai chế định. Trên đây chỉ là hai loại hệ quả pháp lý, trên
thực tế, còn có rất nhiều loại hệ quả pháp lý khác liên quan đến vấn đề con nuôi. Ví
dụ, một số quốc gia còn cho phép cha mẹ đẻ, con nuôi hoặc cha mẹ nuôi chấm dứt
việc nuôi con nuôi (Điều 76 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 của Việt Nam) hoặc
rút lại quyết định nuôi con nuôi trong khi đây lại là điều mà một số quốc gia khác
không chấp nhận.
Các xung đột pháp luật về con nuôi cần được giải quyết trên cơ sở tuân thủ các mục
tiêu cơ bản như: Đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em (Điều 35 Nghị định số
68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Việt Nam); trong một số trường hợp,
đặc biệt là đối với trẻ mồ côi hoặc bị bỏ rơi, mục tiêu này đồng nghĩa với việc tạo điều
kiện thuận lợi cho việc nuôi con nuôi. Đảm bảo lợi ích cho trẻ em còn được thể hiện
qua việc bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trước những đối tượng trung
gian, những người trong một số trường hợp chỉ hành động vì mục đích lợi nhuận hoặc
thậm chí là mục đích phạm pháp như lạm dụng tình dục Như vậy, cần quy định các
điều kiện nuôi con nuôi chặt chẽ để hạn chế tình trạng tất cả mọi người đều có thể
được nhận con nuôi. Ngoài ra, cũng cần tôn trọng nguyện vọng của cha mẹ đẻ khi họ
còn sống và thực sự muốn bảo đảm cho con mình một tương lai tốt đẹp hơn.
Để thực hiện các mục tiêu này, tư pháp quốc tế của một quốc gia có hai sự lựa chọn:
Một là, đi theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho việc nuôi con nuôi, chẳng hạn bằng
cách quy định cho phép áp dụng pháp luật của một trong số các nước có liên quan.
Hai là, quy định rất chặt chẽ về nuôi con nuôi, bằng cách bắt buộc áp dụng kết hợp
quy định pháp luật của tất cả các nước có liên quan (Việt Nam đi theo lựa chọn thứ
hai; xem thêm Điều 37 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của
Việt Nam theo đó người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có đủ
điều kiện để nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của
nước nơi người đó thường trú). Như vậy, xây dựng quy phạm xung đột cân bằng là
một điều rất khó thực hiện.
Ở đây, chúng ta có hai hệ thuộc: 1/ Hệ thuộc luật nhân thân (bao gồm luật quốc tịch,
luật nơi cư trú hoặc nơi thường trú) của con nuôi (đồng thời cũng chính là hệ thuộc
luật của cha mẹ đẻ). Hệ thuộc này quy định các điều kiện đối với con nuôi và cha mẹ
đẻ (ví dụ điều kiện về quyết định đồng ý cho con nuôi ). 2/ Hệ thuộc luật nhân thân
của người nhận con nuôi, quy định các điều kiện đối với người nhận con nuôi (ví dụ
điều kiện về tài chính ). Tuy nhiên, ngoài các vấn đề nêu trên, một số vấn đề khác
khó quy chiếu về một hệ thuộc cụ thể, ví dụ vấn đề về khoảng cách tuổi tác giữa con
nuôi và người xin nhận con nuôi, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi đối với những
người có liên quan (ví dụ vấn đề cắt đứt quan hệ cha mẹ - con cái giữa cha mẹ đẻ với
con nuôi)
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 27
👁 Lượt xem: 624
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 372
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 14
👁 Lượt xem: 438
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 56
👁 Lượt xem: 481
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 56
👁 Lượt xem: 411
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 10
👁 Lượt xem: 2826
⬇ Lượt tải: 83
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 904
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 6
👁 Lượt xem: 552
⬇ Lượt tải: 22
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 359
⬇ Lượt tải: 17
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 11
👁 Lượt xem: 805
⬇ Lượt tải: 16