Mã tài liệu: 256095
Số trang: 225
Định dạng: doc
Dung lượng file: 2,255 Kb
Chuyên mục: Luật
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Riêng đối với quản lý nền kinh tế, Điều 26 Hiến pháp cũng quy định rõ: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách ”. Như vậy, muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng, nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ, phương tiện quản lý, trong đó quản lý bằng pháp luật là một phương thức quản lý quan trọng, không thể thiếu được của Nhà nước.
Thực tiễn quản lý nhà nước trong những năm đổi mới vừa qua đã chứng minh rằng: nơi nào, lĩnh vực nào nhà nước sử dụng có hiệu quả công cụ pháp luật trong quản lý thì ở đó tình hình kinh tế, chính trị xã hội ổn định và phát triển. Nếu buông lỏng vai trò quản lý nhà nước bằng pháp luật sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, lợi dụng những sơ hở và thiếu sót trong các quy định của Nhà nước để trục lợi, lũng đoạn nền kinh tế, tạo cơ hội cho những mặt trái của cơ chế thị trường phát sinh theo hướng phức tạp rất khó kiểm soát ở một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước.
Xuất phát từ chủ trương phát triển kinh tế vùng của Đảng, ngày 23 tháng 2 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một không gian kinh tế mở bao gồm các tỉnh, thành: Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Bình Phước, Tây Ninh, Tiền Giang. Đây là những tỉnh, thành lớn của phía Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế. Với chủ trương, đường lối mở cửa của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, vùng kinh tế trọng điểm này đã thu hút được rất nhiều các nhà đầu tư nước ngoài, là nơi có nhiều dự án đầu tư nước ngoài nhất so với các địa phương trong cả nước. Theo số liệu thống kê (Niên giám thống kê 2007, Tổng cục Thống kê), vùng kinh tế trọng điểm này chiếm 63,84% số dự án và 59,08% tổng số vốn đầu tư nước ngoài của cả nước. Hoạt động đầu tư nước ngoài tại đây ngày càng có hiệu quả, đã kích thích khả năng phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm này, bên cạnh những kết quả đạt được, tại đây đã và đang xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp, khó khăn. Trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài bộc lộ nhiều vấn đề bất cập trước đòi hỏi của thực tiễn. Điều đó được thể hiện trên các mặt như: pháp luật về đầu tư còn có những bất cập cần sửa đổi, bổ sung. Cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và chưa tạo được động lực phát triển mạnh; một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi; nhiều cấp, nhiều ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy định về quản lý nhà nước không còn phù hợp; chưa bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác động giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khai thác nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm này. Việc ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành luật còn rất chậm. Thực tiễn quản lý vẫn còn tình trạng chồng chéo hoặc phân tán, cục bộ trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền như Cục Đầu tư nước ngoài, Ban Quản lý khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế, Sở Kế hoạch và Đầu tư các địa phương trong vùng. Chưa có một cơ quan quản lý đủ quyền năng thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này của riêng vùng. Đặc biệt, cơ sở pháp lý để thực hiện những cơ chế, chính sách có tính đặc thù cho vùng theo tinh thần các Nghị quyết Đại hội IX, X của Đảng về việc xây dựng những vùng kinh tế - lãnh thổ có cơ chế đặc biệt nhằm phát triển vùng và Nghị quyết 53 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam còn rất thiếu Những thiếu sót, bất cập nói trên đã ảnh hưởng không tốt đến mọi mặt tình hình kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đòi hỏi các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước phải lưu tâm giải quyết. Chẳng hạn như tình trạng chảy máu chất xám, lộ bí mật nhà nước; vấn đề môi trường sinh thái; vấn đề thiết bị lạc hậu; vấn đề quản lý xuất nhập cảnh của người nước ngoài; quản lý nhà nước đối với hoạt động của các thương nhân và các hiệp hội thương nhân nước ngoài bị buông lỏng; một số chủ đầu tư nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam; cạnh tranh thiếu lành mạnh trong hoạt động sản xuất – kinh doanh – đầu tư; thu hút đầu tư bằng mọi giá, chạy theo số lượng dự án đầu tư, thiếu sự tính toán phục vụ cho công cuộc phát triển bền vững. Chất lượng các dự án chưa thật đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển; có sự cạnh tranh theo kiểu “mạnh ai nấy làm”, thiếu tính đồng bộ và tính liên kết giữa các địa phương trong vùng, không phát huy được những thế mạnh, những lợi thế so sánh của vùng. Do đó, trong thực tế, nguồn vốn thu hút từ đầu tư nước ngoài và sự phát triển của vùng chưa thật tương xứng với tiềm năng vốn có của vùng. Đây cũng chính là mặt trái của hoạt động đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, làm hạn chế sự phát triển bền vững của vùng và ảnh hưởng đến sự phát triển chung của cả nước. Có thể nói, vùng kinh tế trong điểm phía Nam đang giữ vai trò đầu tàu cho sự phát triển kinh tế của cả nước và có tiềm năng vô cùng lớn nhưng cơ chế quản lý nói chung, cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài nói riêng còn chưa đảm bảo tốt cho sự phát triển vùng.
Điều này cũng cho thấy thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chưa thực sự được coi trọng và còn nhiều bất cập, hạn chế cần nghiên cứu một cách hệ thống nhằm đánh giá đúng thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính khả thi để bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng này. Với những lý do trên, xét cả về phương diện lý luận và thực tiễn, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là vấn đề cấp thiết.
Vì vậy, tác giả luận án mạnh dạn chọn đề tài “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam” để nghiên cứu và viết luận án Tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
MỤC LỤC
Mục Trang
[TABLE="width: 591"]
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục hình vẽ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1. Tổng quan
9
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
9
1.2. Nhiệm vụ của luận án
19
Kết luận chương 1
20
Chương 2 Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trong điểm
21
2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và một số yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm
21
2.2. Vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm
69
2.3. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, quản lý các vùng lãnh thổ của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam
75
Kết luận chương 2
82
Chương 3. Thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam
84
3.1. Khái quát đặc điểm kinh tế xã hội và tình hình đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
84
3.2. Thực trạng xây dựng và ban hành pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài có liên quan đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
94
3.3. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
116
3.4. Thực trạng giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
127
Kết luận chương 3
139
Chương 4. Quan điểm và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam hiện nay
140
4.1. Bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là yêu cầu cấp bách hiện nay
140
4.2. Quan điểm bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
154
4.3. Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
162
Kết luận chương 4
193
KẾT LUẬN
194
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
197
TÀI LIỆU THAM KHẢO
198
PHỤ LỤC
207
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 128
👁 Lượt xem: 507
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 87
👁 Lượt xem: 498
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 112
👁 Lượt xem: 772
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 31
👁 Lượt xem: 390
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 18
👁 Lượt xem: 303
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 7
👁 Lượt xem: 475
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 26
👁 Lượt xem: 422
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 65
👁 Lượt xem: 479
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 53
👁 Lượt xem: 376
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 7
👁 Lượt xem: 755
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 908
⬇ Lượt tải: 19
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 225
👁 Lượt xem: 529
⬇ Lượt tải: 19