Mã tài liệu: 235915
Số trang: 21
Định dạng: pdf
Dung lượng file: 389 Kb
Chuyên mục: Kinh tế
Tóm tắt
Hướng đến một phương án hội nhập các ý niệm về thể chế và văn
hoá vào khung phân tích kinh tế chính thống, bài này sẽ lược duyệt,
và đánh giá vài lý thuyết gần đây có vẻ có ích cho mục đích đó. Cụ
thể là ý niệm "vốn xã hội", manh nha từ Pierre Bourdieu, nhưng trở
thành phổ thông sau các đóng góp của James Coleman, Robert
Putnam, Francis Fukuyama, Hernando de Soto, và nhiều tác giả khác.
Trong hành trình tìm kiếm một "chìa khoá vàng" để giải thích
hiện tượng tăng trưởng và phát triển kinh tế, với hi vọng chắc chiết
"liều thuốc mầu" cho các quốc gia cần mở mang, giới kinh tế học đã
đưa ra nhiều lý thuyết, đại loại có thể chia làm hai dòng chính.
Dòng thứ nhất là kinh tế học tân cổ điển, trong đó số lượng vốn vật
chất và trình độ công nghệ là quan yếu. Dòng thứ hai gồm các lý
thuyết về thể chế, trong đó lịch sử, xã hội, và văn hoá -- nói chung
là những đặc tính thể chế theo nghĩa rộng -- là trung tâm.
Tiếc thay, đến nay thì cả hai dòng tư tưởng này đều không làm
mọi người thỏa mãn. Về dòng kinh tế học tân cổ điển thì những mô
hình tăng trưởng vào các thập niên 60, 70, dần lộ ra tính siêu thực
của chúng, đã không còn sức thuyết phục. Còn dòng kinh tế học
thể chế thì, tuy có làm sáng một số vấn đề căn bản, đã tỏ ra không
mấy kiến hiệu trong nhiệm vụ đưa ra những hướng dẫn cụ thể về
chính sách, vĩ mô lẫn vi mô, đối nội cũng như đối ngoại.
Trong bối cảnh ấy, một sự kiện trong vài năm gần đây thu hút
nhiều chú ý. Ðó là, một số nhà kinh tế học, xã hội học và chính trị
học, chưa bao giờ dính líu đến tiếp cận thể chế, đã có nhiều ý kiến
mới, một số khảo sát thực tiển về vai trò của xã hội trong sinh hoạt
kinh tế. Ở châu Á thì có tranh luận về "giá trị châu Á", ở phương
Tây (nhất là ở Mỹ) thì có những luận đề của Robert Putnam,
Francis Fukuyama về sự suy giảm "cộng đồng tính". Ở châu Mỹ La
Tinh thì có Hernando de Soto với những ý kiến về vai trò thể chế
trong sự thành công của chủ nghĩa tư bản. Và xa hơn môt khoảng,
nhưng vẫn còn hơi hướng của dòng tư tưởng này, là các lý thuyết
của Fukuyama về "tận điểm của lịch sử", của Huntington về sự
"đụng độ giữa các nền văn minh".
Nhìn chung, có thể nói rằng động cơ chính của tiếp cận này là
một sự quan tâm nhiều hơn đến vai trò của cái tạm gọi là "văn hoá"
trong tiến trình phát triển và tăng trưởng kinh tế, kể cả chiều ngược
của tiến trình này, tức là sự suy thoái của những nền kinh tế tiên
tiến. Chữ "văn hóa" được dùng trong ngoặc kép vì nó không hết ý
trong ngữ cảnh, nhất là khi định nghĩa của nó chưa thống nhất, còn
nhiều mảng xám mù mờ. Song, cứ tạm hiểu rằng nó liên hệ đến thể
chế, tức là cái thiếu sót trong kinh tế học tân cổ điển.
Trong các suy nghĩ mới này, "vốn xã hội" là một ý niệm nổi bật.
Với chữ "vốn", cụm từ ấy làm liên tưởng đến kinh tế, và qua chữ
"xã hội", nó hàm ý những giá trị mà các nhà kinh tế "chính thống"
dù thừa nhận là quan trọng, đã chưa có cách đưa vào phân tích
định lượng. Như vậy, nếu "vốn xã hội" là có thực, thì vai trò của nó
trong tiến trình phát triển là hiển nhiên và cần thiết Bởi lẽ, nếu là
một loại vốn, như những loại vốn khác, thì sự tích lũy vốn xã hội là
tối cần để phát triển. Làm sao để tích lũy (hoặc, lắm khi bức xúc
hơn, làm sao để không bị tiêu hao) là một câu hỏi không thể tránh.
Nhìn sâu hơn, nếu ta có thể chọn lựa giữa những sách lược phát
triển khác nhau về (a) tốc độ tích lũy vốn xã hội, hoặc (b) mức độ bổ
túc hoặc đánh đổi giữa các loại vốn (nhất là vốn con người và vốn
xã hội), thì sự lựa chọn ấy phải theo tiêu chí nào để có một sách
lược phát triển bền vững và thích hợp cho quốc gia ?
Sự kiện cụm từ này đã được chính những học giả thường được
xem là bảo thủ (Coleman, Fukuyama, De Soto) đưa vào thảo luận,
qua những tác phẩm dễ hiểu, ít thuật ngữ, đã gây ấn tượng khá lớn
trong không khí trí thức gần đây ở phương Tây, nhất là Hoa Kỳ.
Trong một hội thảo do Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) tổ chức năm
1999, Francis Fukuyama đã khẳng định "xây dựng vốn xã hội là
nhiệm vụ của cải cách kinh tế (ở các nước kế hoạch tập trung cũ)
thế hệ thứ hai (second generation economic reforms)"
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 76
👁 Lượt xem: 714
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 74
👁 Lượt xem: 708
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 91
👁 Lượt xem: 1008
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 26
👁 Lượt xem: 668
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 518
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 2
👁 Lượt xem: 629
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 66
👁 Lượt xem: 579
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 65
👁 Lượt xem: 181
⬇ Lượt tải: 4
📎 Số trang: 39
👁 Lượt xem: 717
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 66
👁 Lượt xem: 253
⬇ Lượt tải: 11
Những tài liệu bạn đã xem