Mã tài liệu: 116186
Số trang: 18
Định dạng: docx
Dung lượng file: 160 Kb
Chuyên mục: Xã hội học
Từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở nước ta đã có những bước tiến quan trọng. Được biết, Công ước CEDAW là Công ước về “Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 18 – 12 – 1979. Ngày 03 – 09 – 1981, sau khi nước thứ 20 thông qua, công ước này bắt đầu có hiệu lực với tư cách một văn kiện quốc tế tổng hợp nhất về quyền con người của phụ nữ. Theo Uỷ ban CEDAW, đã có 186 quốc gia trên thế giới phê chuẩn hoặc ký kết công ước, chiếm hơn 90% thành viên Liên hợp quốc. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia công ước vào 29 – 07 – 1980 phê chuẩn vào 27 – 11 – 1981. Từ đó mới thấy được tầm quan trọng của việc nâng cao vị thế cho người phụ nữ, chống lại các hành vi phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Hơn nữa, với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đời sống nhân dân được nâng cao thì vị thế người phụ nữ cũng được cải thiện một cách đáng kể, có điều kiện tham gia công tác xã hội, có vai trò trong sản xuất kinh tế cũng như nuôi dạy con cái trong gia đình của họ. Việt Nam tham gia hưởng ứng ngày Thế giới về xóa bỏ bạo lực chống lại phụ nữ (25 – 11), về nguyên tắc, Đảng và Nhà nước chủ trương xóa bỏ mọi hành vi bạo lực trên cơ sở giới nói chung cũng như bất kỳ hành vi bạo lực gia đình nào đối với phụ nữ nói riêng.
Nhưng trên thực tế, bạo lực đối với phụ nữ vẫn còn diễn ra một cách khá phổ biến. Theo ông Nguyễn Xuân Thanh, Phó tránh án Tòa án nhân dân Hà nội: số vụ li hôn bắt nguồn từ bạo lực đối với phụ nữ phải xét tới cấp phúc thẩm chiếm 99/222 vụ năm 2000; 57/175 vụ năm 2001; 35/119 vụ trong tháng 9/2002. Nghiên cứu của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam năm 2000 cho thấy, hơn 40% phụ nữ trong mẫu khảo sát đã từng bị chồng đánh đập hoặc chửi mắng. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao 18 tỉnh thành từ 1992 – 2000 đã xảy ra 11.630 vụ bạo lực gia đình buộc cơ quan luật pháp và chính quyền can thiệp. Trong đó, các tỉnh đồng bằng sông Hồng như Thái Bình 1.123 vụ, Hà Tây (nay là Hà nội) 1.484 vụ và một số tỉnh khác như Khánh Hòa 819 vụ, Ninh Thuận 967 vụ, Kiên Giang 2.001 vụ, Bà Rịa Vũng Tàu 515 vụ. Riêng năm 2005, có tới 39.730 vụ ly hôn trong tổng số 65.929 vụ án về hôn nhân gia đình chiếm tỷ lệ là 60,3%. Trên địa bàn Hà Nội từ tháng 1 – 2000 đến tháng 9 – 2002, Trung tâm Cảnh sát 113 Hà Nội đã nhận được 517 tin tố cáo, cầu cứu của các nạn nhân bị bạo lực gia đình. Trong 8 năm gần đây có tới 11.630 vụ bạo lực gia đình được chính quyền can thiệp giải quyết. Cao nhất là các tỉnh Hà Tây 1.484 vụ, Kiên Giang 2.005 vụ... Trên báo chí hàng ngày đã đăng tải nhiều vụ bạo lực rất dã man trong gia đình như: Bài “Khống chế, đổ thuốc diệt cỏ vào miệng vợ!?” trên Báo Thanh niên - số 186 ra ngày 05 – 07 – 2003; Bài “Kẻ giết vợ dã man”, “Hình phạt chung thân vì hành xử vợ bằng... búa” trên Báo Phụ nữ Việt Nam ra ngày 08 – 09 – 2003; Bài “Đổ xăng đốt vợ” trên Báo Công an nhân dân ra ngày 07 – 12 – 2002... Những bài báo đã mô tả những hành động tội ác dã man, vô nhân tính của người chồng đối với vợ mình.
Phụ nữ nông thôn phải làm rất nhiều công việc khác nhau như nội trợ, nuôi con, tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp như trồng lúa, trồng rừng, chăn nuôi trâu bò, lợn, gà... chăm lo phát triển kinh tế gia đình trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị trường. Công cuộc đổi mới kinh tế ở nông thôn Việt Nam đã tạo ra mức tăng trưởng rất đáng khích lệ về lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Trong sự thay đổi đó, phụ nữ nông thôn đã có những đóng góp hết sức quan trọng bởi vì họ là lực lượng lao động cơ bản trong sản xuất nông – lâm nghiệp. Tuy nhiên, vị thế của phụ nữ trong nền kinh tế thị trường, trong các quan hệ xã hội và trong đời sống gia đình chưa tương xứng với mức độ đóng góp của họ. Phụ nữ đang phải chịu nhiều thiệt thòi hơn so với nam giới: thường phải làm việc nhiều hơn, không có điều kiện tham gia các hoạt động xã hội và học tập chuyên môn nghiệp vụ. Do vậy mà sự phụ thuộc của họ vào gia đình và xã hội vì vậy cũng tăng lên.
Gia đình là cái nôi yêu
Kết cấu đề tài:
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 985
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 1262
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 20
👁 Lượt xem: 761
⬇ Lượt tải: 20
📎 Số trang: 29
👁 Lượt xem: 722
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 41
👁 Lượt xem: 766
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 32
👁 Lượt xem: 1122
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 41
👁 Lượt xem: 872
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 50
👁 Lượt xem: 897
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 51
👁 Lượt xem: 1295
⬇ Lượt tải: 23
📎 Số trang: 20
👁 Lượt xem: 683
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 22
👁 Lượt xem: 644
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 28
👁 Lượt xem: 817
⬇ Lượt tải: 22
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 18
👁 Lượt xem: 815
⬇ Lượt tải: 20