Mã tài liệu: 264431
Số trang: 10
Định dạng: zip
Dung lượng file: 60 Kb
Chuyên mục: Kinh tế chính trị
I. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
Trong những năm gần đây ở Việt Nam, việc nghiên cứu và vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp đổi mới đất nước đang là một yêu cầu bức bách. Hàng loạt vấn đề mới mẻ đang đặt ra như: liệu Việt Nam có thể bức ra khỏi tình trạng các nước nghèo, tránh đối với nguy cơ tụt hậu, vươn lên thành một nước công nghiệp tiến lên không? Làm thế nào để thực hiện được công nghiệp hoá - hiện đại hoá khi nhiều điều kiện để thực hiện sự nghiệp đó ở nước ta còn thiếu? Liệu chúng ta có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa mà vẫn xây dựng thành công hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam hay không? Những vấn đề đó đều cần được giải đáp bằng lý luận, đặc biệt là lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài này.
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là: Vận dụng phép biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kinh tế và chính trị trong lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá góp phần đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một trong những nội dung quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là một phạm trù dùng để chỉ xã hội ở trong một giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên quan hệ sản xuất ấy. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng luôn luôn tác động biện chứng với nhau. Sự tác động đó làm cho xã hội vận động và phát triển theo những quy luật nhất định.
1.1. Quan điểm mác - xít về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Học thuyết Mác đã vạch ra cơ sở khoa học cho sự nhận thức lịch sử đó là: sản xuất vật chất là nền tảng của sự tồn tại và phát triển của mọi xã hội. Trong sản xuất con người bao giờ cũng phải gắn mình trong mối quan hệ "song trùng" nghĩa là, một mặt con người phải quan hệ với giới tự nhiên để cải tạo, chinh phục tự nhiên, mối quan hệ này được biểu hiện thành lực lượng sản xuất. Mặt khác, con người phải quan hệ với nhau trong quá trình sản xuất, vật chất, được biểu hiện thành quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được tạo thành bởi rất nhiều yếu tố khác nhau. Giữa các yếu tố đó có quan hệ chặt chẽ với nhau và có vai trò không ngang nhau trong quá trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất là tất cả những lực lượng vật chất và những tri thức, kinh nghiệm được sử dụng vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động, với những kinh nghiệm sản xuất và tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động. Trong đó, người lao động là nhân tố quan trọng nhất, quyết định sáng tạo ra tư liệu sản xuất và sử dụng nó để là ra của cải vật chất
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 12
👁 Lượt xem: 939
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 546
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 638
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 27
👁 Lượt xem: 363
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 19
👁 Lượt xem: 624
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 19
👁 Lượt xem: 572
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 19
👁 Lượt xem: 212
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 19
👁 Lượt xem: 4139
⬇ Lượt tải: 25
📎 Số trang: 17
👁 Lượt xem: 340
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 17
👁 Lượt xem: 603
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 14
👁 Lượt xem: 497
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 10
👁 Lượt xem: 328
⬇ Lượt tải: 17