Mã tài liệu: 228190
Số trang: 9
Định dạng: doc
Dung lượng file: 113 Kb
Chuyên mục: Luật
[FONT=Times New Roman]Đặt vấn đề
[FONT=Times New Roman]“Chấp nhận chỉ có hiệu lực khi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện hay tiêu chuẩn của chấp nhận”. Đây là quy tắc chung mà bất kỳ luật gia nào cũng phải thừa nhận. Nhưng có một vài sự đáp ứng điều kiện của chấp nhận rất khó đánh giá. Nên có thể có các quy chế riêng, đôi khi gây tranh luận. Chẳng hạn Unidroit cho rằng, về nguyên tắc chung, chấp nhận bằng hành động chỉ có hiệu lực khi người đề nghị được thông báo về hành động đó. Như vậy khó có thể phân biệt giữa chấp nhận bằng hành động với chấp nhận bằng các cách thức khác khi người đề nghị nhận được một thông báo “Tôi đã hành động theo đề nghị của quí ngài”? Tuy nhiên Unidroit cũng đã nhấn mạnh rằng những thông báo như vậy chỉ cần thiết nếu bản thân hành động không bao hàm sự thông báo chấp nhận trong một khoảng thời gian hợp lý1.
[FONT=Times New Roman]Chấp nhận đề nghị là giao kết hợp đồng, tuy nhiên nhất thiết phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định2. Hợp đồng được giao kết là hậu quả pháp lý mấu chốt và quan trọng nhất của chấp nhận. Nói cách khác, đó chính là điểm mấu chốt của hiệu lực của chấp nhận. Tuy nhiên trước tiên cần phải nghiên cứu thời điểm chấp nhận có hiệu lực và thời điểm hợp đồng được giao kết.
[FONT=Times New Roman]Thời điểm chấp nhận có hiệu lực theo pháp luật Việt Nam chính là thời điểm người đề nghị nhận được chấp nhận. Mặc dù Điều 397, khoản 1 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 không có quy định rõ ràng về thời điểm này. Song nếu giải thích nó trong mối quan hệ với các Điều 391, khoản 1 và Điều 400 của BLDS 2005, thì chúng ta có kết quả nêu trên.
[FONT=Times New Roman]Thời điểm giao kết hợp đồng giữa những người gặp mặt nhau hoặc trao đổi trực tiếp với nhau được BLDS 2005 quy định: Đối với hợp đồng giao kết bằng lời nói là thời điểm các bên đã thoả thuận về nội dung của hợp đồng; đối với hợp đồng giao kết bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản (Điều 404 khoản 3 và khoản 4). Việc giao kết hợp đồng bằng văn bản theo tinh thần của Điều khoản này cũng có thể được hiểu trong trường hợp bên này gửi cho bên kia một bản văn hợp đồng để cùng nhau trao đổi, thoả thuận nhằm đi đến ký kết, hoặc nếu chấp nhận thì ký vào và gửi lại. Đặc biệt Điều 397, khoản 2 BLDS 2005 buộc người được đề nghị phải trả lời ngay về việc có chấp nhận hay không trong trường hợp các bên trực tiếp giao tiếp với nhau qua điện thoại hoặc qua các phương tiện giao tiếp khác (chẳng hạn như “chat”), trừ khi có thoả thuận khác về thời hạn trả lời. Vì vậy có thể suy ra trường hợp được đề cập tới trong điều khoản này có thể khác với trường hợp được nói tại Điều 404, khoản 3 BLDS 2005. Tuy nhiên các điều khoản của BLDS 2005 liên quan tới hình thức và thời điểm giao kết hợp đồng có nhiều cách giải thích khác nhau. Dưới đây sẽ đề cập tới cách giải thích cần lưu ý để suy ngẫm
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 5
👁 Lượt xem: 624
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 4
👁 Lượt xem: 491
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 6
👁 Lượt xem: 452
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 21
👁 Lượt xem: 635
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 6
👁 Lượt xem: 2794
⬇ Lượt tải: 24
📎 Số trang: 22
👁 Lượt xem: 453
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 55
👁 Lượt xem: 470
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 381
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 533
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 19
👁 Lượt xem: 614
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 93
👁 Lượt xem: 510
⬇ Lượt tải: 17
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 601
⬇ Lượt tải: 16