Info
Tôi đến Phú Thọ hai lần, lần nào cũng nghe kể chuyện Bút Tre, nghe đọc thơ Bút Tre. Chuyến đi Đền Hùng tháng Tư năm 2006 vừa rồi, tôi mua được cuốn Bút Tre - Thơ và giai thoại do họa sĩ - nhà văn Ngô Quang Nam sưu tầm và giới thiệu. Tôi đọc và thấy có nhiều điều tâm huyết cần suy nghĩ về thơ cũng như văn chương nghệ thuật trong thời đổi mới. Thơ Việt từ khi có chữ viết đến nay đều bắt nguồn từ ca dao dân ca chốn làng quê mà thành, nên chúng ta hay gọi là Thơ Ca. Ca rồi mới đến Thơ (tức là từ dân gian đến bác học). Cũng có lối đi “từ bác học” đến dân gian. Ví dụ ca dao hò vè, các lối hát quan họ, ca trù, xẩm, v.v… đa phần là sáng tác của các nhà thơ, các thầy đồ hay chữ, được dân gian hóa mà truyền đời này qua đời khác. Có một lối đi từ văn chương bác học đến thơ ca dân gian nhưng vô cùng khác lạ mà lý thú, không giống ai: Đó là lối thơ Bút Tre! Từ nhiều năm nay, nghĩ đến thơ Bút Tre là tôi nghĩ ngay đến một cách chơi thơ tài tử, tài tình, nó là sự cách tân, làm giàu câu thơ Việt. Trong lịch sử thơ ca nước ta có lẽ tôi chưa biết có một nhà thơ nào sáng tạo ra một cấu trúc thơ riêng của mình có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống sinh hoạt xã hội của người Việt như Bút Tre. Thơ Bút Tre sinh ra từ những năm 60 của thế kỷ trước. Chỉ sau đó 5 năm thôi, thơ Bút Tre đã được “nhân bản” thành các dòng thơ hậu Bút Tre ngay khi ông còn sống, như Bút Tre trẻ, Bút Tre non, Bút Tre xanh, Bút Tre Tây... Bây giờ thì dân ta ai cũng thuộc những câu thơ hậu Bút Tre: “Anh đi công tác Pley / Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra” hay “Núi Voi trông thật giống con voi / Có cả đầu đuôi, có cả vòi / Núi cũng như người hăng sản xuất / Đầu thì trồng sắn, đít trồng khoai...” Chắc chắn cuộc sống càng phát triển, thì dòng thơ Bút Tre ngày càng sinh sôi.