Không riêng gì các nhà hiền triết Đông Phương mà cả Tây Phương, khi thiết lập một triết thuyết, đều phải căn cứ vào Vũ trụ quan, để hệ thống hóa diễn trình tư tưởng, vì hành tàng của con người luôn luôn mật thiết với thiên địa. Khổng tử một đại hiền, đã tập quần thánh nhi đại thành, suốt đời học tập, năm mươi tuổi bắt đầu học dịch lý, tay nâng niu sách, coi như thánh thư, mà sách còn bị tam biên chi vị tuyệt, đủ cái hiểu công dùi mài của ông siêng cần biết bao.
Tỉnh khán cổ thư tri thánh đạo: Lãnh hội được các tháng ý của tiên hiền trong các cổ thư.
Lại: Nhàn quan hoa thảo thức thiên tâm. Quan sát thêm hoa thảo đổi thay, cùng với tứ thời bát tiết, nhìn thấy: xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàng, cùng với con người mạch lý, nhịp theo thảo mộc cũng xuân huyền, hạ hồng, thu mao, đông thạch, nên chính là nguyên tắc đoàn kết thiên hạ nhất gia, để hướng sang các mục tiêu kiến thiết, cho quốc cường dân phú lại phải canh cải luôn, nhật tân, nhật nhật tân, tân hựu nhật tân, mà cả phương châm hành xử đều ghi trong hai quyển trung dung và đại học, mà tổng thống Tưởng Giới Thạch đã thâu tóm đúc kết lại trong trong tác phẩm: Khoa học dịch học dung (tinh thần khoa học trong bộ đại học và trung dung).
Ông đã nêu ra con người phải thành ký ý, phải chính kỳ tâm, thời tu thân sẽ hoàn bị mới trở thành người quân tử. Thái đô nhân từ khoan thái như: "Đạm như thu thủy trung vị, Hòa tự xuân phong tĩnh hậu công". Tới khi nhận thế, phải hăng say tỏ tài kinh bang phù quốc. "Trong lăng miếu ra tài lương đống, Ngoài biên thùy rạch mũi can tương". Gặp vận bĩ quốc nhục, biết hy sinh tồn vong tính mang mình nhẹ như lông hồng vì đại nghĩa, không tham sinh úy tử, biết khuất biết thân, chứ không lý luận một chiều.