Chữ Nôm là một sáng tạo rất có ý nghĩa của tổ tiên cha ông ta. Sự xuất hiện của chữ Nôm là một sự kiện lớn đánh dấu sự tiến triển của nền văn hóa của dân tộc trong gần 2000 năm qua. Sự hình thành của chữ Nôm có thể do sự bức bách cần thiết trong việc giáo hóa dân chúng ở vào thời đại xa xưa, Căn Ða cư sĩ cho rằng Nhâm Diên đã dùng chữ Nôm trong công việc giáo hóa quần chúng. Càng về sau, mỗi lần đất nước bị kẻ thù phương Bắc xâm lược thì trong những thời kỳ đó, chữ Nôm lại đóng vai trò tích cực hơn trong việc chống trả ngoại xâm và xây dựng đất nước. Có người căn cứ trên hai chữ Bố Cái cho rằng chữ Nôm có từ thời Bố Cái Ðại Vương Phùng Hưng. Có người căn cứ trên ba chữ Ðại Cồ Việt để cho rằng Nôm có từ thời Ðinh Tiên Hoàng. Ðào Duy Anh cho rằng chữ Nôm có thể hình thành ngay vào lúc họ Khúc dấy nghiệp, rồi dần dà phát triển mạnh ở các thời đại về sau. Cho đến hôm nay, nguồn gốc và diễn biến của chữ Nôm vẫn là chuyện tồn nghi.
Từ thế kỷ thứ 7 sau Công Nguyên và cho đến khoảng thế kỷ thứ 10, chữ Hán thâm nhập vào hoạt động văn hóa, tinh thần của người Việt nhờ vào một hoàn cảnh đặc biệt đó là sự truyền bá đạo Phật. Có thể nói, vì do việc hấp thụ giáo lý đạo Phật nên việc học tập chữ Hán trong giai đoạn này là điều cần thiết. Ðến thế kỷ thứ 10 về sau, khi Nho giáo truyền vào Việt Nam, nếu như trong giai đoạn trước việc học tập chữ Hán chủ yếu dùng để hiểu biết giáo lý của đạo Phật thì sau này việc học tập chữ Hán trở thành một nhu cầu chính thống và rộng rãi, không những chỉ dùng để ghi chép các công việc quản lý hành chính mà nó còn có vai trò quan trọng trong hệ thống thi cử nho học xưa kia. Sự kiện quan trọng trong quá trình du nhập của Nho giáo đó là việc được ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư "Năm Canh Tuất, niên hiệu Thuần Vũ thứ hai năm 1070 đời Lý Thánh Tông, mùa thu tháng tám cho xây Văn Miếu, dựng tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng 72 người hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây”. Việc cho xây dựng Văn Miếu đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập và sử dụng chữ Hán. Từ đó, chữ Hán đã trở thành chữ viết chính thức trong gần 1000 năm, kể từ năm 1075 sau khi vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Nho học đầu tiên, cho đến năm 1919 là năm mở khoa thi cuối cùng ở Huế.
Việc dùng chữ Hán chính thức trong tầng lớp cai trị đất nước là điều dễ hiểu, nhưng chữ Hán là 1 loại chữ ngoại lai, không thích hợp với đại đa số dân chúng dùng để biểu đạt ý tưởng trong cuộc sống thường ngày. Ngay cả trong cung đình, nơi tập trung các quan lại văn hay chữ tốt, chữ Hán là công cụ chính thức để truyền đạt tư tuởng, nhưng cũng không phải là không gặp trở ngại. Sự việc vua Trần Nhân Tông dùng quan Hành Khiển để dịch những lời truyền dụ của vua quan cho dân chúng thì rõ. Sau khi đại thắng quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông tuyên cáo cho dân chúng biết, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi rằng … Lệ cũ, mỗi khi tuyên đọc lời vua, thì viện Hàn lâm lĩnh đưa bản thảo tờ chiếu cho quan Hành Khiển để giảng tập trước. Đến khi tuyên đọc, thì giảng cả âm nghĩa cho dân thường dễ hiểu…
Sau này, Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) trong “Tế cấp bát điều “, có nêu rõ sự bất tiện của chữ Hán và đề nghị dùng chữ Nôm như chữ chính thức. Gần hơn nữa, Tuy Lý Vương, một nhà Hán học, văn hay chữ tốt, nhưng cũng ý thức được sự tiện lợi trong việc truyền đạt tư tưởng bằng chữ Nôm cho quần chúng nên đã viết “Nữ Phạm Diễn Nghĩa Từ” bằng chữ Nôm. Cũng như Hường Nhung, con của Tuy Lý Vương đã viết “Việt Sử Tứ Tự Ca”, tóm tắt sử Việt bằng chữ Nôm với lời văn đơn giản để cho con cháu hiểu biết được một cách dễ dàng và nhanh chóng.