Mã tài liệu: 301494
Số trang: 31
Định dạng: zip
Dung lượng file: 326 Kb
Chuyên mục: Tổng hợp
[FDI có thể ảnh hưởng tới nến kinh tế ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá và xã hội. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo, kỳ vọng lớn nhất của việc thu hút FDI chủ yếu là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Kỳ vọng này dường như được thể hiện trong tư tưởng của các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách với 3 lý do chính. Một là, FDI góp phần làm tăng thặng dư của tài sản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung và ổn định kinh tế vĩ mô. Hai là, các nước đang phát triển thường có tỷ lệ tích luỹ vốn thấp và vì vậy, FDI được coi là một nguồn vốn quan trọng để bổ sung đầu tư trong nước nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Ba là, FDI tạo cơ hội cho các nước nghèo tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn, dễ dàng chuyển giao công nghệ hơn, thúc đẩy quá trình phổ biến kiến thức, nâng cao tràn của FDI, góp phần làm tăng năng suất của các doanh nghiệp trong nước và cuối cùng là đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nói chung. Trên thực tế không phải nước nào cũng đạt được cùng một lúc hai kỳ vọng này. Một số nước thu hút được dòng vốn FDI khá lớn nhưng tác động tràn hầu như không xảy ra. Ở kỹ năng quản lý và trình độ lao động.v.v… Tác động này được xem là tác động một tình thế khác, vốn FDI vào một nước có thể làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế nhưng đóng góp của nguồn vốn này vào tăng trưởng là thấp. Cả hai trường hợp trên đều được coi là không thành công với chính sách thu hút FDI chưa tận dụng triệt để và lãng phí nguồn lực này dưới góc độ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là của các nước đang phát triển, thông qua hai kênh tác động ở trên.
Đề tài: “Tác động tràn của FDI đến khu vực kinh tế trong nước” sẽ tập trung giải thích và làm rõ tác động gián tiếp của FDI tới tăng trưởng kinh tế.
Kết luận
Trong khoảng gần 20 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành Việt Nam đã thu được những kết quả khá ấn tượng về thu hút FDI. Cùng với sự tăng trưởng nhanh về GDP chung của cả nền kinh tế, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP. Thành quả trên được đánh giá là lết quả của cải cách chính sách kinh tế ở Việt Nam thực hiện trong giai đoạn vừa qua, đồng thời kết quả đó cũng gợi mở về quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong thời gian qua chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam không kém hấp dẫn so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng hiệu lực và tính thực thi chính sách thấp làm giảm dòng vốn FDI đăng ký và gây khó khăn cho giải ngân nguồn vốn này. Dù xét dưới góc độ nào, biến động thất thường về FDI đăng ký sẽ bất lợi cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh trong khu vực về thu hút FDI ngày càng gay gắt hơn.
Ngoài ra, ít dự án có quy mô lớn cũng là một dấu hiệu không tốt nếu xét về chuyển giao công nghệ và phổ biến kiến thức. Các Công ty lớn thường có năng lực về công nghệ, nên sự hiển diện của các Công ty này ít ra cũng là biểu hiện cho việc đầu tư sản xuất các hàng hoá vốn có hàm lượng công nghệ cao. Các Công ty lớn còn mang lại niềm hy vọng cho nước nhận đầu tư có được tác động tràn tích cực từ kênh chuyển giao công nghệ và kiến thức.
Mức thu nhập cao phản ánh năng suất lao động cao của khu vực có vốn FDI là một biểu hiện bình thường ở các nước đang phát triển. Năng suất lao động cao từ khu vực FDI thường mong đợi sẽ lan toả ra các khu vực khác, và thực tế ở một số quốc gia điều đó đã được kiểm định là có xảy ra. Tuy nhiên, trong trường hợp của Việt Nam cũng cần phải xem xét. Khu vực có vốn FDI tập trung trong các ngành sản xuất thay thế nhập khẩu, tức được bảo hộ và trong chừng mực nào đó có sức mạnh thị trường. Do vậy, khả năng sinh ra tác động tràn tích cực hay tác động lan toả chắc chắn bị hạn chế. FDI tập trung cao trong các ngành được bảo hộ, tập trung vốn có thể ngăn cản quá trình di chuyển lao động giữa các doanh nghiệp FDI. Như vậy, khả năng xuất hiện tác động tràn tích cực do di chuyển lao động là rất hạn chế.
Do vậy chính phủ cần tạo môi trường đầu tư thuận lợi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư ở Việt Nam nhưng đồng thời cần chú ý tới tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển hơn nữa
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 31
👁 Lượt xem: 909
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 30
👁 Lượt xem: 347
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 32
👁 Lượt xem: 354
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 31
👁 Lượt xem: 352
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 27
👁 Lượt xem: 483
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 55
👁 Lượt xem: 511
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 56
👁 Lượt xem: 359
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 56
👁 Lượt xem: 417
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 17
👁 Lượt xem: 369
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 58
👁 Lượt xem: 472
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 23
👁 Lượt xem: 395
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 29
👁 Lượt xem: 402
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 31
👁 Lượt xem: 272
⬇ Lượt tải: 16