Mã tài liệu: 229888
Số trang: 9
Định dạng: docx
Dung lượng file: 19 Kb
Chuyên mục: Tổng hợp
[URL="/tags.php?tag=ti%E1%BB%83u+lu%E1%BA%ADn"]Tiểu Luận được thể hiện dưới dạng WORD nên các bạn dễ chỉnh sửa, chúc các bạn học tốt
[FONT="]
[FONT="]Phần mở đầu
[FONT="]Cho đến nay, khi nói đến công ty cổ phần một cổ đông hay một thành viên, nhiều luật gia còn cảm thấy có điều gì đó “hơi ngược”. Thế nhưng, khi được hỏi tại sao công ty cổ phần lại cần phải có bảy hay ba cổ đông thì dường như rất khó có câu trả lời. Cảm giác “hơi ngược” về công ty cổ phần một cổ đông có lẽ xuất hiện bởi Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: Số lượng cổ đông tối thiểu của công ty cổ phần là ba cổ đông (Điều 77); và công ty bị giải thể khi không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu trong thời hạn sáu tháng liên tục (Điều 157). Hiện nay, chưa có một sự giải thích chính thức về học thuyết nào và triết lý nào ẩn sâu sau các quy định này. Nhưng từ biểu hiện bên ngoài, có thể nhận xét: các quy định này có gì đó hạn chế quyền tự do kinh doanh hiến định bởi đưa ra các hạn chế thiếu lý do chính đáng và đôi khi chỉ vì các hạn chế thiếu lý do chính đáng như vậy, nhiều nhà đầu tư bị giảm đi sự lựa chọn về hình thức công ty và phải “lách luật”. Tuy nhiên, để có thể nói công ty cổ phần một cổ đông có phải là hình thức công ty chính đáng và có ích hay không, thì cần phải có những khảo nghiệm. Bài viết này tập trung vào việc đối chiếu một số quy định pháp luật của các nước về công ty cổ phần một cổ đông và đưa ra lập luận căn bản về việc nên thừa nhận loại hình công ty này.
[FONT="]Phần nội dung
[FONT="]1. Khái quát quy định của một số nước về số lượng cổ đông tối thiếu của công ty cổ phần[FONT="]
[FONT="]Luật Công ty năm 1990 của Việt Nam quy định công ty cổ phần có số lượng thành viên tối thiểu là bảy (Điều 30, Luật Công ty năm 1990). Số lượng cổ đông tối thiểu đã được quy định rút xuống còn ba theo Luật Doanh nghiệp năm 2005. Sự rút xuống này không nảy sinh một nhận định nào về tình trạng xấu đi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
[FONT="]Ở Anh, tuy mô hình công ty cổ phần xuất hiện từ thế kỷ thứ 17, nhưng mãi đến năm 1844, Nghị viện mới cho ra đời Đạo luật điều chỉnh và đăng ký công ty cổ phần. Năm 1856, Nghị viện nước này ban hành đạo luật mới về công ty, theo đó số lượng cổ đông tối thiểu của một công ty cổ phần là bảy cổ đông. Hiện nay pháp luật về công ty của Anh quan niệm, công ty (không phân biệt loại hình) có thể do một hoặc nhiều thành viên thành lập. Cụ thể, tại Mục 7 và Mục 8, Phần 2 của Đạo luật 2006 quy định: “Cách thức thành lập công ty: Theo luật này, một công ty được thành lập bởi một hoặc nhiều người; tên của những người góp vốn được ghi trong hợp đồng thành lập công ty và phải tuân thủ các quy định của Đạo luật này khi đăng ký thành lập”. Định nghĩa về công ty cổ phần tại Đạo luật này được quy định tại Mục 1041 mà ở đó người ta không tìm thấy đặc điểm nhận dạng công ty cổ phần liên quan tới số lượng cổ đông, mà chỉ tìm thấy đặc điểm nhận dạng liên quan tới việc chia vốn thành cổ phần, và chuyển nhượng cổ phần
[FONT="]Ở Hoa Kỳ trong thời kỳ thuộc địa, do pháp luật Anh được áp dụng, nên đòi hỏi một công ty cổ phần phải có tối thiểu bảy cổ đông. Hiện nay, theo Đạo luật mẫu về công ty ở Hoa Kỳ, việc có hay không quy định số lượng thành viên công ty là một vấn đề để phân biệt giữa các công ty đại chúng và các công ty khác, cụ thể: Mục 2.01 của quy định “Một hoặc nhiều người có thể hành động với tư cách là thành viên công ty bằng việc gửi hồ sơ thành lập đến cơ quan đăng ký kinh doanh để thành lập công ty”; và Mục 1.40.18A quy định “Công ty đại chúng là công ty mà cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán quốc gia hoặc có hoạt động thương mại thường xuyên trên thị trường được sự bảo trợ của một hoặc nhiều thành viên hiệp hội chứng khoán quốc gia”.
[FONT="]Ở Úc, trước kia pháp luật về công ty được xây dựng dựa trên khuôn mẫu của pháp luật Anh, theo đó, số lượng cổ đông tối thiểu của công ty cổ phần cũng được ấn định là bảy cổ đông. Năm 1981, với sự ra đời của Đạo luật công ty có tính độc lập, quan niệm về số lượng cổ đông tối thiểu trong công ty cổ phần có sự thay đổi. Điều 33 của Đạo luật này quy định số lượng thành viên tối thiểu là năm thành viên, và được áp dụng cho một số loại hình công ty mà trong đó có công ty cổ phần (company limited by shares).
[FONT="]2. Việc tiếp nhận hình thức công ty cổ phần một cổ đông ở Việt Nam[FONT="]
[FONT="]2.1. Công ty cổ phần một thành viên xuất hiện ở Việt Nam do thực tiễn thi hành luật và thực tiễn “lách luật” của nhà đầu tư[FONT="]
[FONT="]2.2. Sự tác động tích cực của hình thức công ty cổ phần một cổ đông đến sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam hiện nay[FONT="]
[FONT="]
[FONT="]Tài liệu tham khảo
[FONT="](1)[FONT="] Ngô Huy Cương, Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 62.
[FONT="](2)[FONT="] Ngô Huy Cương, Hợp đồng thành lập công ty ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2004, tr. 64- 70; Các bài giảng của TS. Ngô Huy Cương cho các lớp Cao học Luật tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
[FONT="](3)[FONT="] Ngô Huy Cương, Khái niệm công ty hợp danh tại Luật Doanh nghiệp năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11 (148) tháng 6/2009, tr. 23- 26
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 29
👁 Lượt xem: 288
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 25
👁 Lượt xem: 58
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 20
👁 Lượt xem: 342
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 21
👁 Lượt xem: 388
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 16
👁 Lượt xem: 268
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 313
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 25
👁 Lượt xem: 325
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 28
👁 Lượt xem: 381
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 8
👁 Lượt xem: 496
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 556
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 46
👁 Lượt xem: 380
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 209
👁 Lượt xem: 565
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 9
👁 Lượt xem: 404
⬇ Lượt tải: 16