Mã tài liệu: 248423
Số trang: 24
Định dạng: doc
Dung lượng file: 218 Kb
Chuyên mục: Kinh tế thương mại
1_ Khái niệm công ty hợp danh:
Cũng như pháp luật nhiều nước trên thế giới không có một định nghĩa chung cụ thể và chính xác về loại hình công ty hợp danh, pháp luật Việt Nam hiện hành mà cụ thể là Luật Doanh nghiệp 2005 đã định nghĩa công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó. Khoản 1 Điều 130 của Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 định nghĩa: Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: - Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung ( sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; - Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Định ngĩa này cho thấy hai vấn đề lớn cần phải bàn: Vấn đề lớn thứ nhất, công ti hợp danh theo quan niệm của Luật Doanh nghiệp năm 2005 phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, có ngĩa là hai người chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn định đối với các khoản nợ của công ti. Điều này là đúng nếu Luật Doanh ngiệp năm 2005 không quan niệm công ti hợp danh bao gồm cả công ti hợp vốn đơn giản. Như trên đã nói, bản chất của công ti hợp danh (general partnership) đúng ngĩa là sự liên kết của các thương nhân đơn lẻ (sole trader hay sole proprietorship) để kinh doanh dưới một tên hãng chung. Vì vậy, công ti hợp danh phải có từ hai thành viên hợp trở lên, nếu không thì sẽ vẫn chỉ là thương nhân đơn lẻ. Còn đối với công ti hợp vốn đơn giản thì chỉ cần có một thành viên hợp danh (hay “thành viên nhận vốn” – gọi một cách dễ hiểu hơn và đỡ bị nhầm hơn về ngữ ngĩa) và một thành viên góp vốn là đủ. Ngay ở Hoa Kì người ta quan niệm: “Công ti hợp danh hữu hạn (limited partnership) bao gồm hai hay nhiều người, với ít nhất một thành viên hợp danh và một thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn”. Cần lưu ý thêm: “công ti hợp danh hữu hạn: gọi theo cách của chúng ta xưa kia là “công ti hợp vốn đơn giản” hay “công ti hợp tư đơn thường”. Để thấy hết quan niệm sai lầm về công ti hợp danh theo pháp luật của Việt Nam hiện nay, cần khảo sát tình huống sau: Lại Thị Lợi và Cù Thị Như Lan cùng nhau thành lập một công ti hợp danh mang tên Lại Cù. Công ti hoạt động rất hiệu quả, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, giải quyết được rất nhiều việc làm cho một địa bàn có nhiều người thất nghiệp, thực hiện chính sách kij tế lớn của địa phương. Khôw may Cù Thị Như Lan qua đời để lại tài sản cho người thừa kế duy nhất mang tên Cù Thị Khoái, không có khả năng kinh doanh và không được sự tin tưởng về mặt kinh doanh của Lại Thị Lợi. Khoái không muốn rút khỏi công ti, nhưng cũng đồng ý chỉ là thành viên góp vốn của công ty. Lợi không muốn kết nạp thêm bất kì ai vào công ti vì không tin tưởng và không muốn chia xẻ cơ hội kinh doanh. Biết rằng tỉ lệ quyền lợi của Lợi và Lan trong công ti Lại Cù bằng nhau. Để giải quyết tình huống này, có các giải pháp sau
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 19
👁 Lượt xem: 458
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 371
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 343
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 46
👁 Lượt xem: 408
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 22
👁 Lượt xem: 552
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 75
👁 Lượt xem: 468
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 74
👁 Lượt xem: 443
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 21
👁 Lượt xem: 365
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 51
👁 Lượt xem: 464
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 32
👁 Lượt xem: 687
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 64
👁 Lượt xem: 389
⬇ Lượt tải: 16
Những tài liệu bạn đã xem