Mã tài liệu: 211593
Số trang: 71
Định dạng: pdf
Dung lượng file: 781 Kb
Chuyên mục: Triết học
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vấn đề chân lý là một trong những vấn đề cơ bản của lí luận nhận thức. Từ thời cổ đại các nhà triết học đã đưa ra các quan niệm khác nhau về chân lý, về con đường đạt đến chân lý và tiêu chuẩn của chân lý. Chân lý hiện ra qua quá trình con người nhận thức thế giới, chính vì vậy chân lý cũng được hình thành và phát triển từng bước phụ thuộc vào sự phát triển của đối tượng khách quan, vào điều kiện lịch sử cụ thể của nhận thức, vào hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Bàn về vấn đề này Lênin viết rằng “sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là cả một quá trình. Tư tưởng (con người) không nên hình dung dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh đơn giản, nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận động ” [7, 207]. Tuy nhiên công nhận chân lý là một quá trình là một chuyện song hiểu cho đúng bản chất quá trình đó lại là chuyện khác. Về nguyên tắc thì ngay triết học trực quan đã có thể công nhận như vậy. Nhưng đến cả các nhà triết học có xu hướng mácxít cũng đang khá bất đồng trong việc hiểu tính chất của quá trình đó. Cách hiểu duy vật biện chứng về quá trình đó phải tất yếu bao hàm câu trả lời đúng đắn cho các câu hỏi sau: Thứ nhất, quá trình đó diễn ra ở đâu, ở khách thể, ở chủ thể hay ở sự thống nhất của chúng? Thứ hai, quá trình đó diễn ra theo những quy luật nào? Theo những quy luật đặc thù của tư duy hay theo những quy luật của môi trường xã hội? Thứ ba, ai (hoặc cái gì) là vật mang chân lý – quá trình, khách thể tự thân, riêng tư duy của chủ thể, hay con người như là sinh thể xã hội cải tạo hiện thực?
Trong triết học trước Mác các câu trả lời thường hoặc là theo cách đặt đối lập nhị nguyên luận chủ thể và khách thể, hoặc là thần bí hoá sự thống nhất của chúng. Trong các quan điểm này, chân lý, về thực chất, nếu được mô tả như quá trình thì cũng chỉ với tư cách là quá trình tư tưởng thuần tuý diễn ra theo những quy luật đặc thù của nó, khác với những quy luật của tồn tại. Vả lại không riêng tồn tại tự nhiên, mà còn cả tồn tại xã hội vốn có cơ sở và bản chất là hoạt động thực tiễn của con người.
Ngay những người hiểu biết nhất học thuyết chân lý và lý luận nhận thức duy vật biện chứng cũng hầu như không quan tâm đến chân lý như là quá trình lịch sử. Khía cạnh duy vật lịch sử hoặc là bị bỏ qua hoàn toàn, hoặc là được khảo sát như nhân tố bên ngoài thuần tuý. Như thế là đã quên mất đường dẫn đến bước ngoặt trong quan điểm về chân lý phải trải qua hay phải giải quyết vấn đề đó. Học thuyết này nếu xét một cách lịch sử thì nó không phải là tiền đề mà là kết quả cách hiểu duy vật về lịch sử. Không nhận ra bước ngoặt này, một số nhà triết học vẫn tiếp tục khảo cứu vấn đề chân lý trong khuôn khổ cách đặt và giải quyết vấn đề đó theo truyền thống đặc trưng cho triết học trước Mác vốn dựa trên nhị nguyên luận, tách rời một mặt, tư duy và hoạt động thực tiễn cụ thể, mặt khác, hiện thực vật chất và ý thức. Sở dĩ có hiện tượng ý thức triết học bị tha hoá như trên là do nó đã xuất phát từ lập trường tha hoá lao động trí óc với lao động chân tay. Khi đó tư tưởng thể hiện như lĩnh vực độc lập tự trị có cơ sở không phải trong lịch sử nhân loại mà trong chính mình. Hoặc sự tha hoá đó được biểu hiện trong việc quy con người về “sinh thể tự nhiên” và chuyển tính năng động của chủ thể sang cho khách thể. Trong cả hai trường hợp thì vấn đề chân lý đều được khảo sát tách rời với hoạt động thực tiễn vật chất vốn gắn kết chủ thể và khách thể thành một chỉnh thể biện chứng. Nếu hoạt động con người được thừa nhận thì nó cũng bị quy về cái gọi là chủ thể thần bí. Tính chân thực trong điều kiện tha hoá biểu hiện không phải như sự phù hợp giữa tư tưởng với hoạt động thực tiễn và với hiện thực khách quan, mà như sự chiều theo các quy tắc lôgic của tư duy hình thức trừu tượng khiến chân lý quá trình được mô tả như sự phát triển của chính bản thân mình. Triết học mác đã khắc phục những thiếu sót căn bản của các quan niệm trước đó về chân lý đồng thời đặt nền móng cho cách tiếp cận thực sự khoa học về chân lý bằng cách hiểu mới về chủ thể của tư duy, nhờ cải biến căn bản phương thức khảo sát các vấn đề lý luận nhận thức. Bước ngoặt đó thể hiện ở việc chuyển sang nền tảng của thực tiễn lịch sử hiện thực, sang cách hiểu duy vật về lịch sử xã hội. Trên nền tảng đó vấn đề chân lý nổi lên như vấn đề lịch sử. Cách hiểu duy vật biện chứng về chân lý vốn phản ánh bản chất của hoạt động cách mạng – phê phán của giai cấp vô sản và đã tìm thấy sự hiện thân thích hợp và đầy đủ nhất trong thế giới quan khoa học của giai cấp đó – trong phép biện chứng duy vật - là kết quả của việc ứng dụng phương pháp duy vật lịch sử vào khảo sát vấn đề chân lý. Do đó cách hiểu về chân lý trong triết học mác đã phá tan nội dung duy vật trực quan hoặc duy tâm và chân lý được xét không phải như tính chất của phán đoán riêng biệt mà như thuộc tính của hoạt động cải biến, sáng tạo của con người. Còn vấn đề chân lý lại nổi lên như là vấn đề về hiện thực thật sự. Chính thông qua mặt đó mà trong kỉ nguyên hiện thời, lần đầu tiên chân lý được nâng lên tầm lí tưởng xã hội cộng sản chủ nghĩa như là sự vận động lịch sử mà tự nó hướng đến chân lý. Chân lý dưới dạng tư tưởng lý luận cộng sản chủ nghĩa đã lôi kéo vào sự vận động này hàng trăm triệu người, mở rộng sự tham gia của họ vào quá trình lịch sử đến tận tầm vóc chung nhân loại. Chân lý khai triển ý nghĩa lịch sử của mình theo đà mà bản thân lịch sử trở thành “thật sự” và ngược lại lịch sử trở thành “thật sự” của nhân loại theo mức độ mà chân lý trở thành lịch sử. Các quá trình này được thực hiện trong sự thống nhất với nhau.
Trong cách hiểu duy vật biện chứng về chân lý như là quá trình có chứa dưới dạng vượt bỏ biện chứng các trình độ phát triển trước đó của học thuyết triết học về chân lý. Do đó, đồng thời với việc trình bày quan niệm của triết học mác về chân lý là sự tái hiện lại quá trình nhận thức thực về chân lý trong lịch sử. Với những suy tư như trên chúng tôi chọn Quan niệm của triết học Mác-Lênin về chân lý – quá trình lịch sử làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều các quan niệm khác nhau về chân lý xuyên suốt trong lịch sử triết học ở hầu khắp các giáo trình triết học, lịch sử triết học dành cho sinh viên chuyên cũng như không chuyên triết. Ví như Giáo trình triết học Mac-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, xuất bản qua các năm từ 2000 đến 2004; Lịch sử triết học do Nguyễn Hữu Vui chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, 2002; Giáo trình triết học Mac-Lênin (3 tập) dành cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không chuyên triết, Nxb. Chính trị quốc gia, 1997 Ngoài ra vấn đề này cũng được đề cập nhiều và khá đầy đủ trong Lịch sử phép biện chứng (6 tập) của Nxb. Chính trị quốc gia, 1998 Nhưng một điểm chung trong hầu hết các tài liệu trên là các quan niệm về chân lý được trình bày theo tiến trình của lịch sử nhận thức, lồng ghép trong các quan điểm khác mà chưa được tổng kết riêng có hệ thống về vấn đề này. Vì vậy đặc điểm chung của các tài liệu là chưa nêu ra một cách cụ thể các quan niệm về chân lý ở mỗi thời kì. Do đó người đọc khó xâu chuỗi được mạch lôgic cũng như thấy được tính kế thừa của các quan niệm mà các hệ thống sau là sự giải quyết mâu thuẫn của hệ thống trước. Không mường tượng được một cách cụ thể sự chế định của các điều kiện kinh tế xã hội đến quan niệm của mỗi thời kì lịch sử. Song khoá luận này cũng không hề có tham vọng đưa ra quan niệm mới về chân lý, mà, được cổ vũ bởi tinh thần Ilencôv, tác giả của nó chỉ mong muốn trình bày một cách hệ thống và lôgic hơn các quan niệm về chân lý trong lịch sử triết học. Từ đó rút ra đặc điểm chung của mỗi giai đoạn lịch sử nhận thức nhất định, để thấy rằng chân lý là một quá trình như nó vốn có một cách hiện thực và được minh chứng cũng rất hiện thực.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: làm rõ sự hình thành và những nội dung cơ bản của quan niệm của triết học Mac-Lênin về chân lý như là quá trình lịch sử.
Nhiệm vụ: - làm rõ các quan niệm trước Mác về chân lý như là cơ sở hình thành cách giải quyết thực sự khoa học vấn đề chân lý của triết học Mac-Lênin.
- Phân tích những nội dung cơ bản của quan niệm triết học Mac-Lênin về chân lý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: chân lý như một vấn đề chủ yếu của triết học.
Phạm vi nghiên cứu: theo tiến trình lịch sử triết học.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
Khoá luận được tiến hành dựa trên cách hiểu duy vật về lịch sử, nhất là những phần nội dung về tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về thực tiễn.
Phương pháp chủ yếu được dùng trong khoá luận là: thống nhất lôgic-lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu, diễn dịch, quy nạp
6. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khoá luận gồm hai chương, năm tiết
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 32
👁 Lượt xem: 525
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 17
👁 Lượt xem: 704
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 22
👁 Lượt xem: 2825
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 10
👁 Lượt xem: 651
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 19
👁 Lượt xem: 4152
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 22
👁 Lượt xem: 509
⬇ Lượt tải: 19
📎 Số trang: 22
👁 Lượt xem: 752
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 16
👁 Lượt xem: 433
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 363
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 13
👁 Lượt xem: 457
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 16
👁 Lượt xem: 634
⬇ Lượt tải: 18
📎 Số trang: 8
👁 Lượt xem: 550
⬇ Lượt tải: 20
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 71
👁 Lượt xem: 685
⬇ Lượt tải: 16