Mã tài liệu: 222559
Số trang: 25
Định dạng: doc
Dung lượng file: 86 Kb
Chuyên mục: Kinh tế chính trị
30 trang
đề án:
Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
PHầN Mở ĐầU
Bước ngoặc lớn nhất của cách mạng Việt Nam đó là sự ra đời của đảng cộng sản vâo ngày 3-2-1930. Ngay từ khi ra đời đảng ta mặc dù còn non trẻ nhưng vẫn khẳng định vai trò lãnh đạo của mình. Đảng đã lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống lại sự xâm lược của Nhật, Pháp, Mĩ cứu nước. Nhưng sau khi hoà bình lập lại, chúng ta là nước bị tàn phá nặng nề cả về kinh tế lẫn xã hội. Về mặt kinh tế chúng ta bị tàn phá về cơ sở vật chất khá nghiêm trọng, nạn đói hoành hành khắp nơi. Vì thế mục tiêu của đảng lúc bấy giờ là làm sao xoá đói giảm nghèo và khôi phục lại đất nước.
Cũng như các nước xã hội chủ nghĩa trước đó ngay từ đầu chúng ta đã áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung (KTKHHTT) mặc dù điều kiện ra đời của nền kinh tế hàng hoá (KTHH) vẫn còn nhưng không được thừa nhận một cách chính thức. Nền KTKHHTT đã từng thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Và đã đóng góp vào thành công của cách mạng Việt Nam. Nhưng kể từ khi kết thúc chiến tranh do hậu quả nặng nề của nó để lại, và do cấm vận của các nước đế quốc và do không còn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa nữa cho nên nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn. Sản xuất không đáp ứng được tiêu dùng. Nền kinh tế bị sơ cứng năng xuất chất lượng bị giảm sút nghiêm trọng. Do duy trì quá lâu nền kinh tế này mà kinh tế nước ta lâm vào tình trạng suy thoái kéo dài. Tiếp đó lại có sai lầm về chính sách kinh tế. Càng làm cho nền kinh tế bị suy thoái nặng nề. Từ suy thoái về kinh tế dẫn đến suy thoái về xã hội. Làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng. Trước bối cảnh đó đảng và nhà nước ta chủ chương chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986.
Trong quá trình chuyển đổi từ đó đến nay kinh tế nước ta đã thu được rất nhiều thành tựu to lớn và bước đầu thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo. Và lần lượt qua các kỳ đại hội nó đã được bổ xung và ngày càng được hoàn thiện đối với nền kinh tế nước ta. Nhưng nó cũng không tránh khỏi những sai xót trong việc áp dụng.
Trong phạm vi bài tiểu luận này em muốn nêu lên một quan điểm, một nhận xét khách quan về nền kinh tế thị trường ở nước ta. Vì vậy em đã chọn đề tài “Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Thành đã trực tiếp giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này.
PHầN GIảI QUYếT VấN Đề:
I. Sự cần thiết và tính khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Kinh tế kế hoạch hoá tập trung, những ưu và nhược điểm của nó.
a. Ưu điểm:
Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa cũ, cả nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức rộng rãi ở nông thôn cũng như thành thị. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa cũ mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tê nông nghiệp lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá. Ta đã tập trung được vào tay một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản, tiền vốn để phát triển ổn định về kinh tế. Vào những năm đầu của thập kỷ ở miền Bắc đã có những chuyển biến về kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung tự cấp vốn có của ta lúc đó, đồng thời cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến lúc đó.
b. Nhược điểm:
Sau ngày giải phóng, miền Nam bức tranh về hiện trạng kinh tế đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cấp tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá.
Đó là thực tế khách quan, tồn tại sau năm 1975, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ chương xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm vi cả nước. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của các cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đât nước, trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế “gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt năng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay, viện trợ của nước ngoài. Đến cuối nhưng năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao, làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số đại phương nạn đói đang rình dập. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
Ta đã thực hiên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng.
Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép: Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vữa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực phát triển.
Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lưa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động.
2. Sự cần thiết khách quan phải chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội ở nước ta.
Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh te-xã^' hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tăng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa người lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiên vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu.
Kinh tế hàng hoá, bắt nguồn từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra dời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan giã, dựa trên hai tiền đè cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng dần được đổi thay: Từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh te-xã^' hội không phổ biến, không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nông dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trọng xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển.
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai giã man).
Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn phát triển kinh tế thi trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phá triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế.
Giai đoạn thứ ba, là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc của giai đoạn này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ. . . để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường trong một nền hinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh.
Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá (sản xuất hàng hoá nhỏ) tự phát sẽ “hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư ban”? (nói theo cách nói của V. I. Le-Nin^) và sự phát triển của KTTT trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, KTTT không phải là một chế độ kinh te-xã^' hội. KTTT là một hình thức và phương pháp vận hành kinh tế các qui luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, qui định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo qui luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuat-kinh^' doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa hoc-kỵ thuật, nâng cao năng xuất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng qui mô của sản xuat-kinh^' donh. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa hoc-cộng nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuat-kinh^' doanh. Sự phát triển của KTTT gắn liền với quá trình phát triển của văn minh nhân loại, của khoa hoc-kỵ thuật, của lực lượng sản xuất. Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; Giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ, kỹ thuật vi điện tu-tin+? học. .
Những tài liệu gần giống với tài liệu bạn đang xem
📎 Số trang: 31
👁 Lượt xem: 424
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 29
👁 Lượt xem: 31
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 29
👁 Lượt xem: 129
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 28
👁 Lượt xem: 778
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 31
👁 Lượt xem: 286
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 23
👁 Lượt xem: 510
⬇ Lượt tải: 17
📎 Số trang: 17
👁 Lượt xem: 355
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 34
👁 Lượt xem: 259
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 31
👁 Lượt xem: 31
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 23
👁 Lượt xem: 459
⬇ Lượt tải: 16
📎 Số trang: 15
👁 Lượt xem: 483
⬇ Lượt tải: 19
Những tài liệu bạn đã xem
📎 Số trang: 25
👁 Lượt xem: 294
⬇ Lượt tải: 16